☆ Chuyên đọc diễn cảm các tác phẩm văn học trường học, hướng dẫn soạn, học các tác phẩm ấy và chia sẻ những nội dung mang tính văn học, nhân văn
Cảm ơn bạn đã tải Top 3 mẫu Đóng vai nhân vật Mị Châu kể lại câu chuyện siêu hay. Nếu quá trình tải chưa bắt đầu, vui lòng nhấn vào đây! Bấm vào liên kết dưới đây để tải về: Top 3 mẫu Đóng vai nhân vật Mị Châu kể lại câu chuyện siêu hay 174,2 KB 28/10/2021 5:48:43
Khi đến bên cạnh giếng Loa Thành, chàng ta đã khóc rất nhiều và tiếp tục uống đến lúc say. Sau đó, Trọng Thủy nhìn xuống giếng và thấy thấp thoáng hình bóng mờ mờ ảo ảo của mình mà tưởng Mị Châu. Tưởng chừng như được gặp lại người vợ sau bao ngày cách xa
Tựa "Trích diễm thi tập". Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (trích Đại Việt sử kí toàn thư) Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Thái sư Trần Thủ Độ. Khái quát lịch sử tiếng Việt. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Hồi trống cổ thành. Tình cảnh lẻ loi của
Văn mẫu lớp 10: Đóng vai An Dương Vương kể lại truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy gồm 2 dàn ý chi tiết, cùng 11 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 10 tham khảo, tích lũy vốn từ để kể lại truyện thật súc tích, Vậy mời các em cùng theo dõi nội dung chi tiết trong bài viết dưới đây: Dàn ý Đóng
3. Bài văn mẫu Nhập vai thành An Dương Vương để kể lại Truyện Mị Châu, Trọng Thủy số 3. Chuyện xảy ra đã lâu, nhưng mỗi khi nhắc tới, tôi lại không khỏi dằn vặt bản thân đã làm cơ đồ rơi vào tay giặc. Đến bây giờ, nỗi ăn năn, hối hận vẫn còn ám ảnh trong tôi.
Bài làm văn - Kể chuyện nhập vai. Trường: THPT Thăng Long. Lớp: 10D4. Học sinh: Nguyễn Thu Hà. ĐỀ: VÀO VAI NHÂN VẬT TRỌNG THUỶ HOẶC MỊ CHÂU KỂ LẠI TRUYỆN "AN DƯƠNG VƯƠNG VÀ MỊ CHÂU, TRỌNG THUỶ". BÀI LÀM: Trong lòng ta thật sự đang rất rối loạn. Từng tiếng vó ngựa
Psmuxc. Hướng dẫn Đề bài Sau khi được học xong tác phẩm An Dương Vương Mị Châu- Trọng Thủy, em hãy đóng vai nhân vật Mị Châu để kể lại truyền thuyết An Dương Vương Mị Châu – Trọng Thủy Bấy giờ cha ta là vua An Dương Vương xây thành Cổ Loa để ngăn chặn sự xâm chiếm lãnh thổ của giặc phương bắc Triệu Đà. Khốn nỗi thành nay xây mai lại đổ biết bao nhiêu người phu này đến người phu khác đều lần lượt đến rồi lại đi. Mỗi bữa cơm thấy vua cha buồn rầu không nói lòng ta thương cha vô hạn. Một hôm cha ta lập đàn tế mong trời đất phù hộ để xây được thành và bảo vệ đất nước và nhân dân. Một cụ rùa đến thành tự xưng là thần Kim Quy, sứ thanh giang đến để dạy cách xây thành. Tấm lòng yêu nước thương dân của vua cha đã động lòng trời đất. Sau khi xây thành xong, thần Kim Quy còn tặng cha ta một cái vuốt vàng và bảo hãy làm nó thành một chiếc nỏ thần. Chiếc nó ấy sẽ giúp cho vua cha ta có thể bảo vệ cho đất nước này. Vua cha nghe lời thần và sai tướng Cao Lỗ rèn chiếc nỏ thành một chiếc nỏ lớn. Mấy hôm sau Triệu Đà đem quân sang xâm chiếm nước ta, vua cha sai người mang nỏ thần ra bắn. Lạ kì thay mũi tên nào từ chiếc nó thần bắn ra đều trúng rất nhiều người, mũi nào mũi nấy đâm sâu vào tim vào bụng lũ cướp nước. triệu Đà thua trận liền rút quân về nước. Trong thành vua cha lấy làm hài lòng và hết mực biết ơn thần Kim Quy đã giúp đỡ. Vài hôm sau Triệu Đà lại đến, nhưng lần này hắn không đem quân đến đánh mà lại đến xin hòa và muốn kết thân. Hai bên vua cha nói chuyện với nhau hồi lâu và ngỏ ý muốn cho ta và người con trai của Triệu Đà kết duyên chồng vợ. Ban đầu ta hơi lo lắng nhưng phận nữ nhi cha mẹ đặt đâu con ngồi đó nên cũng đành ưng thuận. Tuy nhiên khi nhìn thấy một người con trai khôi ngô tuấn tú, nét mặt hiền lành ta lấy làm bằng lòng lắm. Ngày qua ngày ta có một cuộc sống hạnh phúc khi đất nước yên bình cha già vui mừng và đặc biệt ta có thêm một người chồng yêu thương ta, chiều chuồng ta hết mực. Ta nhìn thấy trong mắt chàng, cảm nhận được những hành động chăm sóc của chàng là tình yêu lớn dành cho ta. Trọng Thủy có hỏi ta về chiếc nỏ thần, ta liền kể lại câu chuyện về rùa vàng và chiếc nỏ thần ấy. Ta tin tưởng chàng vì chàng yêu ta, ta còn cho chàng biết chỗ cất dấu và cho chàng xem qua. Một hôm nọ chàng xin vua cha về nước thăm cha Triệu Đà của mình. Ngặt nỗi ta không thể theo chàng. Chàng dặn nếu có gì thì phải mặc áo lông ngỗng đi tới đâu rắc lông ngỗng tới đó để chàng tìm ta. Ta cũng không thắc mắc nhiều chỉ nghĩ rằng chàng yêu ta đến mức chỉ một ngày đi cũng sợ mất ta nên ta ngoan ngoãn vâng lời. Ngay sau khi Trọng Thủy đi không lâu, vua cha Triệu Đà mang quân đến. Ta không biết có chuyện gì xảy ra, hai bên nước đánh nhau hồi lâu. Ta không thấy Trọng thủy đâu không biết chàng có bị làm sao trên đường về không. Vua cha An Dương Vương và ta lên ngựa chạy khỏi thành, chạy về phía biển để cầu cứu thần Kim Quy. Nhớ lời chàng Trọng Thủy đi tới đâu ta rắc lông ngỗng tới đó. Đi tới biển thần Kim Quy hiện lên và chỉ vào mặt ta mà nói “giặc ở sau lưng ngươi kìa”. Lập tức vua cha tung gươm lên cao, ta ngạc nhiên sững sờ nhìn theo gươm và nhìn vào mắt cha mình không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Theo Topics Cảm nhận cuộc sống hành động hạnh phúc lòng yêu nước Nhân vật Mị tình yêu
Vua An Dương Vương, họ Thục tên Phán, là vị vua lập nên nước Âu Lạc, nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam. Sau chiến thắng vĩ đại đánh thắng 50 vạn quân nhà Tần, Thục Vương quyết định xây thành Cổ Loa, chọn một quả đồi đất rắn như đá để đắp thành. Thế nhưng, thành hễ đắp đến đâu lại lở đến đấy, sau mấy lần, An Dương Vương quyết định xem chỗ địa thành để lập đàn trai giới, cầu trời phù hộ đắp xong tòa thành. AN Dương Vương "Nước Việt ta không dễ gì mới đánh thắng được bọn giặc Tần hung hãn, nay muốn xây dựng nên một bức tường thành cao ráo, kiên cố, để cho con dân trăm họ được yên ổn an sinh, nhà nhà no ấm, nước nhà hưng thịnh. Mong cho bách thần thành toàn ước nguyện." Nói rồi An Dương Vương khấu đầu ba cái, tất cả quần thần, dân chúng cũng làm theo. Không lâu sau đó, vào ngày mồng bảy tháng ba, An Dương Vương cùng các quân thần vẫn đi xem thành như thường lệ, nhìn đám người đang hì hục khuân vác, nhà vua không khỏi than thở - Không biết trời có giúp ta? Cụ già "Xây dựng thành như thế này, biết bao giờ cho xong được." Chợt, từ phía sau vang lên một giọng nói, nhà vua ngạc nhiên quay đầu lại, thấy một cụ già từ xa đi tới, đến trước mặt vua hành lễ. Vua nghe cụ nói như vậy, liền biết đây là người có thể giúp mình, mừng rỡ đón vào điện, thi lễ, hỏi - Ta đắp thành này đã nhiều lần băng lở, tốn nhiều công sức nhưng không thành, thế là cớ làm sao? Cụ già đáp - Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thành mới thành công. An Dương Vương "Sứ Thanh Giang?" Cụ già gật đầu "Lão chỉ phụ trách báo tin, nay đã xong việc, xin được cáo lui." Cụ già nói rồi ra về. Hôm sau, từ lúc sáng tờ mờ, nhà vua đã ra cửa Đông chờ đợi, lúc sương vừa tan, bỗng thấy xuất hiện một con rùa vàng từ xa tiến lại, nổi trên mặt nước. Rùa Vàng "Thục vương là đang đợi ta sao?" Nghe thấy rùa vàng nói sõi tiếng người, cả nhà vua và quần thần đều hết sức kinh ngạc, cũng rất tôn kính. Rùa vàng chỉ trong một khắc, biến hóa thành người, đứng trên bờ. An Dương Vương "Ngài chính là?" Rùa Vàng "Đúng thế, ta chính là thần Kim Quy, sứ giả của vua Thủy Tề, thông tỏ việc trời đất, âm dương, quỷ thần. Nay biết được Thục vương gặp khó khăn trong việc xây thành, vua Thủy Tề lệnh cho ta đến đây giúp đỡ." Nhà vua mừng rỡ nói "Điều này cụ già đã báo cho ta biết trước. Không nên chậm trễ, người đâu, mau đưa xe rước sứ Thanh Giang vào thành tiếp đón cẩn thận." Đoàn xe đi vào trong thành, thần Kim Quy bèn nói với nhà vua "Thục vương, trước khoan hãy vào điện, ta muốn đến xem nơi thành lũy đang xây dựng." An Dương Vương làm theo lời của Thần Kim Quy. Đến nơi, thần Kim Quy đứng xem xét, đã biết được nguyên nhân vì sao thành lở. Rùa Vàng "Ở núi Thất Diệu có một con gà trắng sống lâu năm thành tinh có phép biến hóa khôn lường, nó cùng với những yêu ma quỷ quái nơi đây thường phá phách dân làng, cũng chính nó đã làm cho thành lở, mãi không được xây xong." Thần Kim Quy nói xong nguyên do, bèn cùng với nhà vua bàn cách tiêu diệt, chỉ trong vòng ba ngày, đám yêu ma quỷ quái đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Có Rùa Vàng trấn giữ, mọi việc đã yên tâm, nhà vua nói với Cao Lỗ "Mau đốc thúc việc xây thành, để chuẩn bị trước khi Triệu Đà lại cho quân sang chiếm Âu Lạc ta." Cao Lỗ "Thần tuân lệnh." Thành xây nửa tháng thì xong, thành rộng hơn ngàn trượng, vừa cao vừa dày, xoắn như hình trôn ốc, nên lấy tên là Loa Thành, hay còn gọi là Quỷ Long Thành, người thời Đường gọi nó là Côn Lôn Thành, lấy lẽ rằng nó cao lắm. Rùa vàng ở lại ba năm rồi từ biệt ra về. Ngày tiễn thần đi, nhà vua cảm tạ nói "Nhờ ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?" Thần Kim Quy biến trở lại thành một con rùa vàng rất lớn, nổi trên mặt nước, đáp rằng "Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận. Nhà vua ước muốn ta có tiếc chi." Nói rồi bèn tháo một cái móng của mình, trao cho nhà vua "Đem vật này làm lẫy nỏ, khi có giặc đem ra bắn, có thể giết được hàng nghìn quân địch." Nói rồi Rùa Vàng lặn xuống biển sâu. Lúc vào thành, An Dương Vương tức tốc giao việc cho Cao Lỗ "Hãy lập tức cho người làm một cái nỏ lớn, dùng cái này làm lẫy nỏ, nhờ thánh thần giúp ta, lần này Âu Lạc nhất định sẽ lại giành được thắng lợi." Cao Lỗ cũng vui mừng "Vâng, thần tuân chỉ. Nhờ phúc của bệ hạ, lần này nhất định chúng ta sẽ lại chiến thắng." Nỏ thần làm xong, Nhà vua đặt tên cho nó là "Linh quang Kim Quy thần cơ". Dù đã có nỏ thần trong tay, An Dương Vương vẫn ngày đêm miệt mài luyện binh rèn tướng, không hề ngừng nghỉ, bởi lẽ "Dù chúng ta đã có nỏ thần, vẫn luôn phải đề cao cảnh giác, tuyệt không lơ là, giặc ngoại sức cường thế mạnh, chúng ta chỉ là một nước nhỏ, nhất định phải ngày đêm dốc sức rèn luyện." Binh lính "Rõ" Không lâu sau Triệu vương là Đà đem quân sang xâm lược phương Nam nước Âu Lạc, Thục Phán An Dương Vương đã xây xong thành Cổ Loa, lại có nỏ thần trong tay, Âu Lạc đánh bại sự xâm lăng của Triệu Đà, quân Đà thua lớn chạy về Trâu Sơn, đắp lũy không dám đối chiến. Thế nhưng, không từ bỏ dã tâm, Triệu Đà lại dùng gian kế "cầu hòa", hắn sai người viết một lá thư, trong thư viết "Thục vương nước Âu Lạc là người tài trí đa mưu, lại được thần linh giúp đỡ, bản vương đúng là có mắt không thấy thái sơn, đem quân sang đánh Âu Lạc, đúng là việc lỗ mãng ngu dốt. Nay ta muốn được cầu hòa, muốn Thục Vương gả con gái Mị Châu cho con trai ta là Trọng Thủy, mong hai nước từ nay được yên ổn an sinh, không còn chiến tranh đau thương, loạn lạc." Cùng theo đó là rất nhiều trang sức lễ vật. Lúc nhìn thấy lễ vật cùng với thư cầu hôn, An Dương Vương nói với con gái Mị Châu "Nước Triệu đã thua dưới tay ta, nay Triệu Vương muốn cầu hòa, ý muốn hai nước được hòa bình không còn chiến tranh, ta thấy đây là việc tốt, con gái, con là công chúa Âu Lạc, nay đã đến lúc con báo đáp cho đất nước." Mị Châu lệnh vua cha khó trái, bèn đồng ý lấy Trọng Thủy. Cao Lỗ đứng bên nghe thấy vậy, vội nhắc nhở An Dương Vương "Bệ Hạ, Triệu Vương có ý nhòm ngó nước ta đã lâu, nay đột ngột xin hòa, chỉ sợ lại có tâm tư gì khác, mong bệ hạ hãy cân nhắc kĩ lưỡng." An Dương Vương nghe hạ thần nói vậy, liền cười "Ta biết ngươi lo lắng cho vận nước, nhưng ngươi cũng đừng cả nghĩ nhiều, nếu Triệu vương dám đem quân sang xâm lược, quân ta dù ít nhưng ai ai cũng là tráng sĩ, hơn nữa lại có nỏ thần, không cần phải quá lo lắng." Cao Lỗ nghe vậy cũng không nói gì thêm. Ngày lành tháng tốt đã định, hai nước Âu Lạc và Triệu quốc liên hôn, trăm họ vui mừng. Trước khi Trọng Thủy sang nước Âu Lạc, Triệu Vương đã dặn dò "Chuyện quốc gia đại sự nhất định phải đặt lên hàng đầu, không được để chuyện nhi nữ tình trường gây cản trở, con đã nhớ chưa?" Trong Thủy vâng lời đáp "Vua cha cứ yên tâm, con đã ghi nhớ lời dặn." Triệu Đà vẫn chưa yên tâm, bèn cho gọi Hàn Sa- người sẽ đi theo Trọng Thủy đến Âu Lạc, nói "Nhà ngươi đi theo hoàng tử, nhớ lấy, luôn nhắc nhở hoàng tử về nhiệm vụ của mình, biết chưa?" Hàn Sa "Vi thần tuân chỉ, Vương hãy cứ yên tâm." Triệu Vương "Chỉ cần chuyện thành công, ngươi chắc chắn sẽ được trọng thưởng, ban phát đất đai ruộng vườn, người nhà được thăng tiến. Ta sẽ không bạc đãi ngươi." Trọng Thủy sang ở rể, hai người tình chàng ý thiếp sâu đậm, chàng từ lúc nhìn thấy Mị Châu, đã thật lòng yêu nàng. Qua một thời gian, khi mà mọi người đã không còn nghi ngờ, hắn bèn dụ dỗ Mị Châu cho xem nơi cất dấu nỏ thần "Nương tử của ta, từ ngày hai ta lấy nhau đã được ba năm, thế nhưng ta chưa làm được gì cho vua cha vui lòng, cùng lắm mới chỉ tham gia vài buổi huấn luyện binh sĩ, thân là phò mã, chuyện này cũng đáng xấu hổ." Mị Châu đáp "Chàng không cần phải lo nghĩ chuyện đó, hai nước liên hôn, con dân no ấm, như thế vua cha đã rất vui lòng." Trọng Thủy làm bộ "Nhưng ta còn muốn nhiều hơn thế, ta từ mấy tháng trước đã tìm hiểu cách chế tạo vũ khí, không thì.. không thì nàng hãy đưa ta đến nơi cất dấu nỏ thần, để ta có thể mở mang tầm mắt, biết cách làm thế nào để chế thêm những thứ binh khí lợi hại hơn." Mị Châu do dự "Nhưng, nơi cất nỏ thần là bí mật, vua cha không muốn để cho người ngoài biết.." "Ý nàng là, ta hóa ra cũng chỉ là người ngoài, ta không đáng tin như thế ư?" Nàng chưa nói hết câu, Trọng Thủy đã cướp lời, lại tỏ vẻ đau thương. Mị Châu thấy Trọng Thủy hiểu lầm ý mình, liền vội vàng nói "Chàng đừng nghĩ oan cho thiếp, chàng là phu quân của ta, ta làm sao lại nghĩ chàng là người ngoài được." Mị Châu đã bị nét mặt rầu rĩ của Trọng Thủy lừa gạt, nàng thầm nghĩ chàng cũng là vì muốn giúp vua cha, bèn đồng ý đưa chàng đến nơi cất giấu nỏ thần. Sau khi biết được nơi cất nỏ thần, Trọng Thủy lại do dự. Hàn Sa, người theo Trọng Thủy từ Triệu quốc tới đây, nhìn thấy vẻ do dự trên mặt chàng, bèn hỏi "Hoàng tử, ngài đang do dự điều gì sao?" Trọng Thủy ngẫm nghĩ hồi lâu, đáp "Nếu bây giờ ta tráo nỏ, đem về cho vua cha, liệu, liệu nàng có oán trách ta không?" Hàn sa ngước nhìn chàng "Hoàng tử, mong người lượng thứ cho thần nhiều lời, nhưng người là hoàng tử một nước, đây là việc đại sự, nếu như người hoàn thành việc này, chắc chắn ngôi báu sẽ về tay người." Hắn lại tiếp "Hơn nữa, cũng chỉ là một Mị Châu công chúa, nếu người thích thì có thể đem về Triệu quốc, đừng nói chỉ là nàng ta, nếu người muốn nạp thêm thê thiếp, cũng không ai dám cấm cản." Trọng thủy lạnh giọng "Ta lo chuyện đó sao?" Thấy nét mặt của chàng, hắn vội quỳ xuống "Xin Hoàng tử tha tội, là thần đã nói sai, là thần đã nói sai." "Đứng lên đi" Hàn Sa "Nhưng mà hoàng tử, người thử nghĩ xem, nếu người hoàn thành nhiệm vụ này, đánh tráo nỏ thần, thì Thục Phán chắc chắn sẽ thua dưới tay của Vương, đến lúc đó Triệu quốc mở rộng bờ cõi, đất đai, tiền của, dân, binh lính, của Âu Lạc đều là của chúng ta. Thục Phán sẽ trở thành nước chư hầu của Triệu Quốc, quan hệ lúc đấy nói đúng ra cũng không khác bây giờ là mấy, đợi mọi chuyện qua đi nhân dân bách tính hai nước vẫn ở yên làm lụng, chỉ khác ở chỗ, người phải cúi đầu sẽ là Thục Phán, là Âu Lạc, chứ không phải Triệu quốc ta, người nói có đúng không?" Trọng Thủy đã bị hắn thuyết phục, vì lợi ích gian sơn xã tắc Triệu quốc, hắn chỉ có thể ủy khuất nàng, đến lúc xong việc hắn sẽ đối xử tốt hơn nữa với nàng. Hàn Sa đem chiếc lẫy nỏ đã được làm giả cho Trọng Thủy. Tối hôm đó, nhân lúc binh lính canh gác sơ hở, lẫy nỏ thần đã bị đánh tráo. Vài ngày sau, Trọng Thủy lấy cớ về thăm cha "Vua cha, con muốn được về thăm cha con, người đang ốm bệnh, phận làm con đặt chữ hiếu lên đầu, mong được vua cha thành toàn." An Dương Vương gật đầu "Đương nhiên là được, chuyện này con không cần lo lắng, cứ về thăm cha con đi." Trước khi đi, chàng nói với Mị châu "Tình vợ chồng không thể lãng quên, ngiã mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?" Nàng không nghe ra hàm ý trong lời nói của phu quân, chỉ nghĩ là chàng đã quá lo lắng, bèn đáp "Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngống thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông lông mà rắc ở ngã ba đường làm dấu, như vậy có thể cứu được nhau." Trọng Thủy đem lẫy thần về nước, Triệu Vương được lấy cả mừng, bèn phái binh sang đánh. An Dương Vương thấy chuyện có ẩn tình, nhưng vì cậy có nỏ thần nên vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ "Không ngờ Đà lại lật lọng, hắn không sợ nỏ thần sao?" Đến lúc quân Đà tiến sát, vua cầm lấy nỏ, chỉ bắn ra được năm tên ít ỏi, đã biết cơ sự lẫy thần đã bị đánh tráo. Nhà vua tức giận, nhìn quân Đà đang phá cổng thành mà lòng như lửa đốt. Cao Lỗ vội vàng "Bệ hạ, không kịp rồi, người hãy mau đem công chúa chạy về phương Nam, chúng thần sẽ ở đây cầm chân bọn chúng." An Dương Vương nhìn vào mắt Cao Lỗ, quát "Ta thân là vua một nước, chuyện đến nước này la do ta đã quá chủ quan tin người, bây giờ sao có thể tự thân bỏ chạy mà để quân thần bách tính ở lại. Ta sẽ ở lại đây, ngươi hãy mang công chúa đi, bảo vệ công chúa an toàn." Cao Lỗ vội vã ngăn cản "Không được thưa bệ hạ, cũng bởi vì người là vua của Âu Lạc, nên nhất quyết không được để bị bọn chúng bắt giữ, nếu không người đời sẽ càng chê cười, chỉ cần người giữ được tính mạng, thần tin Âu Lạc sẽ có ngày trở mình." An Dương Vương "Nhưng.." "Xin bệ hạ thứ tội thần phạm thượng." Không đợi vua nói hết câu, Cao Lỗ bèn nâng AN Dương Vương lên ngựa, rồi bế công chúa lên sau, lấy giáo đánh vào ngựa. Con ngựa bị đau lao nhanh vun vút, hướng đến phương Nam. Vua chạy tới bờ biển, thấy không có thuyền qua, đến đường cùng bèn kêu lên "Trời hại ta, sứ Thanh Giang mau mau đến cứu." Rùa Vàng hiện lên mặt nước, thét lớn "Kẻ ở sau ngươi chính là giặc đó!" An Dương Vương quay lại, nhìn thấy Trọng Thủy cùng tán quân đang đuổi theo, lại nhìn thấy dấu lông ngỗng trên mặt đất, liền hiểu ra mọi chuyện. An Dương Vương tức giận "Ngươi, người thân là công chúa một nước, lại đi tiếp tay cho giặc, kẻ phản đồ như ngươi xứng đáng nhận cái chết." Mị Châu quỳ xuống khấn rằng "Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù." Vua rút kiếm, chém đầu Mị Châu, máu của nàng chảy xuống biển, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu. Vua cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển. Lúc Trọng Thủy đến nơi, chỉ còn xác của Mị Châu nằm đó, chàng ôm xác Mị châu, đau khổ tột cùng, ngửa mặt lên trời hét lớn "Không.." Đời truyền nơi đó là đất Dạ Sơn, xã Cao Xá, phủ Diễn Châu. Xác của nàng được đem về táng ở Loa Thành, xác biến thành ngọc thạch. Mị Châu đã chết, Trọng Thủy thương tiếc khôn cùng, lúc đi tắm tưởng như thấy bóng dáng Mị Châu, bèn lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau mò được ngọc ở biển Đông, lấy nước giếng này mà rửa thì thấy trong sáng thêm, nhân kiêng tên Mị Châu cho nên gọi ngọc minh châu là đại cữu và tiểu cữu. an dương vương âu lạc kể chuyện lớp 10 mị châu trọng thủy
8 Bài văn mẫu Hóa thân thành An Dương VươngHóa thân thành An Dương Vương kể lại câu chuyệnDàn ý đóng vai An Dương Vương kể lại truyện Mị Châu Trọng ThủyĐóng vai An Dương Vương kể lại Truyện Mị Châu - Trọng Thuỷ mẫu 1Hóa thân thành An Dương Vương kể lại câu chuyện với ngôi thứ nhất mẫu 2Nhập vai An Dương Vương kể lại Truyện Mị Châu - Trọng Thuỷ mẫu 3Hóa thân thành An Dương Vương kể lại Truyện Mị Châu - Trọng Thuỷ mẫu 4Nhập vai An Dương Vương kể lại Truyện Mị Châu - Trọng Thuỷ mẫu 5Nhập vai An Dương Vương kể lại Truyện Mị Châu - Trọng Thuỷ mẫu 6Đóng vai nhân vật An Dương Vương kể lại Truyện Mị Châu - Trọng Thuỷ mẫu 7Nhập vai An Dương Vương kể lại Truyện Mị Châu - Trọng Thuỷ mẫu 8Nhập vai An Dương Vương kể lại Truyện Mị Châu - Trọng Thuỷ mẫu 9Văn mẫu lớp 10 Đóng vai An Dương Vương kể lại Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ là tài liệu văn mẫu THPT hay, giúp các bạn học sinh biết cách kể sáng tạo truyện Mị Châu - Trọng Thủy bằng lời tự thuật của An Dương Vương. Mời các bạn cùng tham khảo các bài văn mẫu nhập vai An Dương Vương kể lại câu chuyện dưới ra, đã thành lập group chia sẻ tài liệu học tập THPT miễn phí trên Facebook Tài liệu học tập lớp 10. Mời các bạn học sinh tham gia nhóm, để có thể nhận được những tài liệu mới tích nhân vật An Dương VươngNhập vai An Dương Vương kể lại việc xây thành Cổ LoaBài tập làm văn số 2 lớp 10 đề 3 Kể lại chuyện sau khi tự tử ở giếng Loa Thành, xuống thuỷ cung, Trọng Thuỷ đã tìm gặp lại Mị ChâuVăn mẫu lớp 10 Phân tích ý nghĩa của hình ảnh ngọc trai - giếng nước trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng ThủyVăn mẫu lớp 10 Phân tích Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng ThuỷDàn ý đóng vai An Dương Vương kể lại truyện Mị Châu Trọng ThủyI. Mở bài- Trọng Thủy xưng tôi giới thiệu về sự về sự xuất thân cả Dùng lời Trọng Thủy, dẫn dắt vào câu chuyệnII. Thân bài1. Trọng Thủy kể về lí do xuất hiện của mình trên mảnh đất Âu Lạc- Cha ta thất bại trong cuộc chiến xâm lược Âu Lạc do đất nước này có vũ khí lợi Nuôi lòng uất hận và chí phục thù, thôn tính bằng được Âu Lạc, cha sai ta sang ở rể và làm gián điệp. Ban đầu không chấp nhận, sau đó nhận ra được ý đồ của cha nên bằng Trọng Thủy kể về quá trình lừa dối Mị Ban đầu sang Âu Lạc chỉ với tham vọng lấy cắp nỏ thần, tiêu diệt Âu Lạc, nhưng không ngờ tôi lại đem lòng yêu Mị Tuy nhiên, tình riêng không thắng nổi chí lớn, ta buộc phải lừa dối Mị Châu.+ Dụ Mị Châu dẫn đi thăm thú Âu Lạc, ngắm nhìn báu vật quốc gia+ Phát biểu một vài cảm nhận về đất nước Âu Lạc rộng lớn, thành trì kiên cố, thành cao hào sâu.+ Mị Châu kể cho ta về quá trình xây thành và chế nỏ Ban đầu rất vất vả, khó khăn nhưng được Rùa Vàng giúp đỡ→ Ta nắm được toàn bộ về đặc điểm của đối thủ+ Lợi dụng lòng tin của Mị Châu để học cách sử dụng nỏ thần.+ Trước sự ngây thơ, cả tin của Mị Châu, lừa dối nàng để đuổi cùng giết tận+ Ta đã nói những lời dự báo với nàng nhưng Mị Châu không chút nghi ngờ+ Nàng rắc lông ngỗng chỉ đường cho ta đuổi Trọng Thủy kể về quá trình đánh chiếm Âu Lạc- Mang nỏ thần về, vua cha vô cùng sung sướng lập tức đem quân đánh Âu Lạc- An Dương Vương chủ quan vẫn đinh ninh có bảo vật trong tay bên coi thường, điềm nhiên đánh Cha con ta đem quân đuổi theo vết lông ngỗng của Mị Châu đến bờ biển thì mất dấu Trọng Thủy kể về cái chết của Mị Châu và quyết định tự vẫn của Ta bắt tên lính còn sống sót tra hỏi thì được biết An Dương Vương đã rẽ sừng tê 7 tấc theo Rùa Vàng xuống biển. Mị Châu bị Rùa Vàng kết tội nên bị vua cha chém chết, trước khi chết nàng đã khấn để bày tỏ lòng trong sạch của mình. Máu của nàng chảy xuống biển trai sò ăn phải đều hóa Ta ôm xác Mị Châu mà khóc, lòng đau khổ, xót xa ân hận vô Vì quá thương nhớ nàng, khi đi tắm nhìn xuống giếng, thấy bóng nàng, ta đã nhảy xuống. Trước khi xuống gặp nàng, ta khấn nếu nàng chịu tha thứ cho ta, hãy đem ngọc trai đem rửa xuống giếng nước thì ngọc sẽ sáng Kết bàiTưởng tượng một kết thúc mới cho câu vai An Dương Vương kể lại Truyện Mị Châu - Trọng Thuỷ mẫu 1Ta là An Dương Vương, vị vua của nước Âu Lạc năm nào. Ngồi dưới thuỷ cung ngắm cá bơi lội, nghe tiên nữ hát ca mà lòng ta vẫn âu lo nỗi buồn. Nhớ năm xưa, chuyện ta dựng nước rồi làm mất nước mà đau đớn vô đó, sau khi lên ngôi vua, ta bèn nghĩ việc xây thành. Nhưng khốn đốn thay, xây thành ở đất Việt Thường hễ đắp tới đâu lại lở tới đấy. Nghe nói vì đất nơi này còn vương vẩn những hồn ma của các vị tướng bại trận mà họ không cho ta thuận lợi đắp thành. Ta lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần. Ngày mồng bảy tháng bảy ta bỗng thấy một cụ già từ phương Đông đứng trước cửa thành mà than rằng “Xây dựng thành này bao giờ cho xong được”. Ta thấy thế, mừng rỡ lắm, đón vào trong điện, thi lễ hỏi lý do đắp thành mãi không xong thì cụ già trả lời “Sẽ có xứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thành mới thành công”, rồi từ biệt ra lời đó, ngày hôm sau ta đứng ngoài cửa đông chờ đợi, và bất ngờ thấy một con Rùa Vàng nổi lên mặt nước, nói sõi tiếng người, xưng là sứ Thanh Giang, ta mừng rỡ vội vã dùng xe nghênh đón, rước Rùa Vàng vào thành. Nhờ sự giúp đỡ của Rùa Vàng, thành sau nửa tháng thì xong. Ngắm nhìn thành mới mà lòng ta vui sướng. Thành rộng hơn ngàn trượng, xoắn ốc nên ta gọi nó là Loa Vàng ở với thành ta được ba năm rồi ra về. Trước khi đi, ta bày tỏ lòng thành kính cảm tạ và hỏi thần nếu giặc đến, làm thế nào giữ nước. Rùa Vàng nghe hỏi rồi tháo vuốt đưa ta, dặn “Đem vật này làm lẫy nỏ, nhằm quân giặc mà bắn thì không lo gì nữa”Nghe lời thần, ta đưa Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy và đặt tên là “Linh quang Kim Quy thần cơ”. Thời gian sau, quân Triệu Đà cử binh xâm lược nước ta, ta lấy nỏ thần ra bắn, làm quân giặc khiếp sợ và thua trận, chạy về Trâu Sơn đắp luỹ và xin bao lâu sau, Đà cầu hôn. Ta gả con gái xinh đẹp Mị Châu cho con trai Đà là Trọng Thuỷ và để cho hắn ở lại cung. Nhưng đó quả thật là sai lầm. Ta không nghĩ đến rằng, con rể lại dụ dỗ Mị Châu ngây thơ cho xem nỏ thần rồi đánh tráo nỏ thần mang về phương được nỏ thần, Triệu Đà mang quân đến đánh. Khi đó ta vẫn chưa biết chuyện, vẫn ung dung chơi cờ vì nỏ thần còn trong tay thì ta chẳng sợ gì. Nhưng éo le thay, khi ta biết nỏ kia không phải nỏ thần thì quá muộn, giặc đã tiến sát thành, ta phải cùng Mị Châu lên ngựa bỏ chạy về phương càng chạy thì ta vẫn thấy giặc đuổi theo sau. Đến tới bờ biển, ta biết đó là đường cùng. Ta bèn kêu rằng “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu” Rùa Vàng từ dưới nước xuất hiện, thét lớn “Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó”. Ta bất ngờ quay lại nhìn thấy đường rải đầy lông ngỗng, trên tay con gái Mị Châu là áo lông ngỗng, ta hiểu ra chuyện và vô cùng tức giận. Ta tức giận vừa đau lòng mà tuốt kiếm chém Mị Châu. Mị Châu thấy vậy, bèn khấn với ta “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Dù đau lòng nhưng là một kẻ phản nghịch, tội đồ quốc gia ta không thể tha thứ với cương vị một người đứng đầu đất theo Rùa Vàng xuống biển. Mị Châu con ta chết ở bờ biển, máu chảy xuống nước, trai ăn vào tạo thành hạt châu. Trong Thuỷ đến đó, thấy con ta đã chết, ôm xác về táng ở Loa Thành, xác biến thành ngọc thạch. Con ta chết, Trọng Thuỷ cũng đau đớn, nhớ mong mà tự tử ở giếng. Nước giếng đó rửa ngọc ở biển Đông thì ngọc vô cùng sáng và đẹpCâu chuyện năm nào được nhân dân ta truyền nhau khiến ta càng day dứt không yên. Chỉ vì những phút giây thiếu cảnh giác mà ta làm mất nước. Đó là bài học xương máu, đau đớn dành cho thân thành An Dương Vương kể lại câu chuyện với ngôi thứ nhất mẫu 2Chuyện xảy ra đã lâu, nhưng mỗi khi nhắc tới, tôi lại không khỏi dằn vặt bản thân đã làm cơ đồ rơi vào tay giặc. Đến bây giờ, nỗi ăn năn, hối hận vẫn còn ám ảnh trong đây, tôi vốn là vua của nước Âu Lạc thân yêu, tên họ Thục Phán. Tôi có xây thành ở đất Việt Thường, nhưng ngặt nỗi đắp tới đâu lại lở ra tới đó. Tôi buồn bã, tôi thất vọng tràn trề. Tôi lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần, mong được sự giúp đỡ. Tôi luôn hi vọng có ai đó giúp tôi trong việc xây thành khó khăn này. Bất ngờ thay, ngày mồng bảy tháng ba, từ phương đông bỗng có một cụ già đến trước cửa thành mà than rằng "Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong được!". Tôi mừng rỡ, đoán biết là người tài mà mình đang cần chiêu mộ. Tôi liền sai người đón vào điện, làm nghi lễ chào mừng và bày tỏ nỗi lòng mình. Tôi thành thực mà giãi bày "Ta đắp thành này đã nhiều lần băng lở, tốn nhiều công sức mà không thành, thế là cớ làm sao?". Nghe xong, có già chỉ đáp "Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thành mới thành công". Cụ già nói xong rồi từ biệt ra về mà không kịp để tôi hỏi han thêm điều gì tối đêm ấy, tôi trằn trọc, băn khoăn không ngủ được. Tôi suy nghĩ về lời cụ già đó nói. Hôm sau, tôi ra cửa đông sớm, ngóng đợi. Chợt tôi thấy có một con rùa Vàng từ phương đông lại, nổi trên mặt nước. Kì lạ là nó nói sõi tiếng người và tự xưng là sứ Thanh Giang, thông tỏ việc trời đất, âm dương, quỷ thần. Tôi mừng rỡ vì biết người mình cần đã xuất hiện. Đúng như lời cụ già đã báo cho tôi trước đó, sứ Thanh Giang nay đã xuất hiện rồi. Tôi lập tức chuẩn bị nghi lễ, dùng xe vàng rước vào trong xây nhanh hơn tôi nghĩ. Trong vòng nửa tháng, thành đã hoàn thành xong. Thành nhìn đẹp lắm. Tôi vẫn nhớ thành đó rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa Thành hay còn gọi là Quỷ Long Thành. Tôi mừng rỡ khi thành được xây dựng xong. Tôi cũng phần nào an tâm vì sự bình yên cho dân làng. Rùa Vàng ở lại với chúng tôi ba năm rồi từ biệt ra về. Lúc tiễn đưa, tôi đã gửi lời cảm tạ "Nhờ ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?". Rùa Vàng liền đáp lại "Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận. Nhà vua ước muốn ta có tiếc chi". Nói xong, Rùa Vàng bèn tháo vuốt đưa cho tôi và nói "Đem vật này làm lẫy nó, nhằm quân giặc mà bắn thì sẽ không lo gì nữa". Dứt lời, Rùa Vàng trở về biển nhanh chóng sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy. Tôi gọi nỏ là "Linh quang Kim Quy thần cơ". Chẳng bao lâu sau, như sự lo lắng của tôi, nước có giặc tràn vào. Triệu Đà đem quân đến giao chiến, hòng thâu tóm thành. Tôi bèn lấy nỏ thần ra bắn, trăm phát trăm trúng, quân Đà thua thảm, bèn rút quân về Trâu Sơn đắp lũy không dám đối chiến, viết thư xin cầu sống dân chúng từ đó được yên ổn, xã tắc bình an. Tôi vốn có một cô con gái xinh đẹp, nết na tên là Mị Châu đương độ tuổi kén chồng. Lúc ấy, Đà sang cầu hôn. Tôi vô tình đồng ý mà không mảy may nghĩ tới mối thù xưa. Tôi cứ nghĩ cuộc hôn nhân này là môn đăng hộ đối, là vừa lứa xứng đôi, các con sẽ trăm năm hạnh phúc. Nhưng tôi đã lầm. Đây chỉ là một kế của Đà hòng cướp đoạt nỏ thần của tôi. Vậy mà khi ấy, tôi chẳng hề để ý. Mị Châu là đứa con gái ngoan ngoãn, là một người vợ hiền hết mực thương chồng. Trong một lần Mị Châu cho Trọng Thủy xem trộm nỏ thần, Trọng Thủy đã tráo nỏ thần đem về phương Bắc, lấy lí do thăm cha. Lúc ấy, tôi vẫn không hề biết rằng nỏ thần đã bị cô con gái thân yêu của mình vô ý trao tay bao lâu sau ngày Trọng Thủy về phương Bắc, Triệu Đà đem quân sang đánh. Tôi cũng không ngờ Đà vẫn còn nặng thù với việc thua ngày xưa. Nhưng tôi đã có nỏ thần trong tay, tôi ung dung, thản nhiên ngồi đánh cờ. Tôi mặc kệ Đà đánh chiếm ra sao. Chỉ khi Đà cho quân tiến sát vào, tôi mới đem nỏ thần ra đánh. Nhưng... nỏ thần đâu? Kia chỉ là cái nỏ rất bình thường. Tôi hoảng loạn khi nỏ thần bị đánh cắp. Tôi cùng con gái bỏ chạy về phía phương Nam. Tôi và Mị Châu cứ chạy, Mị Châu cứ lặng lẽ rải lông ngỗng trên đường mà tôi không hề biết. Chạy đến bờ biển, đường cùng, tôi bèn kêu lớn "Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu". Rùa Vàng khi ấy mới hiện lên và nói "Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó". Tôi quay qua Mị Châu, không khỏi sững sờ khi con gái mình chính là giặc, chính là kẻ đã đưa mình đến bước đường cùng. Chẳng nghĩ ngợi, đắn đo, tôi tuốt kiếm chém Mị Châu, máu chảy lênh láng. Tôi cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn tôi xuống đang sống dưới hải cung, nhưng không khỏi thương tiếc về đất nước mình. Tôi đã lầm lỡ, đã quá tự tin, đã không hề cảnh giác với kẻ thù, để khi mọi chuyện lỡ rồi cũng không còn đường rút. Hi vọng mọi người đừng ai sơ ý giống tôi, cũng đừng ai mất cảng giác như tôi để chuyện xấu không xảy vai An Dương Vương kể lại Truyện Mị Châu - Trọng Thuỷ mẫu 3Ta là An Dương Vương, vua của nước Âu Lạc. Bây giờ ta đang ở dưới biển nhờ sự giúp đỡ của rùa vàng. Đến bây giờ ta vẫn nhớ như in việc ta đã làm mất nước ta vào tay kẻ thù như thế nào. Bây giờ ta sẽ kể lại cho mọi người chuyện đau lòng ấy mà có thể ta không bao giờ quên khi ta nổ lực xây thành nhưng hễ đắp đến đâu lại lỡ đến đấy. Một ngày nọ, ta gặp được Rùa Vàng và được ngài ấy giúp đỡ. Cuối cùng ta cũng xây được một ngôi thành kiên cố lấy tên là Loa Thành hay Cổ Vàng ở lại ba năm rồi cũng trở về. Trước khi về ngài đã lấy vuốt của mình và trao cho ta rồi bào "Người hãy đem vuốt này làm lẫy nỏ để chế tạo ra nỏ thần và chống lại quân giặc". Ta cảm tạ Rùa Vàng và tiễn ngài ấy trở về. Sau đó, ta làm theo và giao việc làm lẫy nỏ cho Cao Lỗ. Thế là ta đã có được một chiếc nỏ thần và khi bắn ra thì có một trăm mũi tên bay ra và giết chết hàng trăm quân Triệu Đà tiến quân sang xâm lược nước Âu Lạc, may nhờ có nỏ thần mà ta chiến thắng được Triệu Đà. Sau đó không lầu, Triệu Đà sang cầu thân xin cho con trai của mình là Trọng Thủy được kết thân cùng với con gái của ta là Mị Châu - đứa con gái mà ta hết mực yêu thương. Nhưng vì tình giao hảo giữa hai nước, ta đã đồng ý với hắn. Vã lại, ta nghĩ mình đã có nỏ thần trong ta nên kẻ thù không làm gì nhìn lại Trọng Thủy, ta thấy hắn cũng là một người anh tuấn. Nhìn bề ngoài trông hắn cũng không đến nỗi là người xấu nên ta mới đồng ý gã con gái ta cho hắn, chỉ mong Mị Châu được hạnh phúc. Nhưng vì quá thương con, không nỡ rời xa đứa con thân yêu và sợ khi về nước chồng sẽ không được coi trọng và hạnh phúc nên ta liền nghị với Triệu Đà cho Trọng Thủy sang ở rễ. Nào ngờ, Triệu đà đồng ý ngay mà ta nào biết âm mưu của hắn. Mãi đến sau này, ta mới biết ta đã vô tình tiếp tay cho kế hoạch của thời gian ở rễ, Trọng Thủy luôn tỏ ra là một con người tốt nên ta cũng chẳng mảy may nghi ngờ mà nới lỏng phòng bị. Ta nào ngờ hắn lại lợi dụng đứa con gái ngây thơ của ta. Hắn dụ dỗ Mị Châu dẫn đến nơi cất dấu nỏ thần và đánh tráo. Sau khi đạt được mục đích, hắn xin về nước thăm cha. Mị Châu nghe vậy lòng buồn rười rượi nhưng cũng đồng lâu sau, quả thật Triệu Đà đã mang quân sang đánh. Ta ỷ lại có nỏ thần nên vẫn ung dung ngồi đánh cờ. Đến khi giặc tiến quân đến sát cửa thành, ta mới sai người đem nỏ thần ra bắn. Lúc này, ta mới phát hiện nỏ thần không còn và biết rằng nỏ thần đã bị lấy trộm và thủ phạm là Trọng Thủy - chồng của con gái mình. Thấy thế quân khó chống, ta leo lên lưng ngựa và để Mị Châu phía sau, phi ngựa về hướng Nam. Chạy ra đến biển mà giặc vẫn còn đuổi theo. Ta liền kêu lớn "Rùa vàng ơi mau đến cứu nguy". Rùa Vàng hiện ra và nói "Giặc ở ngay sau lưng ngươi". Câu nói ấy làm ta bất ngờ vì phía sau ta chỉ có đứa con gái yêu quý. Nhưng khi nhìn thấy tấm áo lông ngỗng của con gái trở nên xơ xác thì ta liền tỉnh ngộ và nhận ra mọi không muốn nhưng khi nghỉ đến việc nước mất nhà tan, làm hại bao nhiêu người dân vô tội thì ta đã tuốt kiếm xuống tay giết đi đứa con gái ruột của mình. Sau đó nhờ sự giúp đỡ của Rùa Vàng mà ta xuống được biển và ở lại đến ngày hôm nay. Sau này, ta biết Mị Châu đã nhận ra lỗi lầm mà mình đã gây nên. Mị Châu nói rằng "Nếu tấm lòng trung hiếu bị người đời lừa dối ta xin nguyện biến thành châu ngọc". Sau khi chết, xác Mị Châu biến thành ngọc thạch, còn máu được trai ăn vào hóa thành ngọc trai. Điều đó nói lên sự trung hiếu của Mị Châu với đất nước. Sau đó Trọng Thủy cũng đau lòng mà bài học đắt giá này, ta muốn khuyên mọi người không nên chủ quan, khinh địch, dễ tin người, phải biết đặt lợi ích của mọi người lên trên lợi ích của cá nhân để không phải hối hận như thân thành An Dương Vương kể lại Truyện Mị Châu - Trọng Thuỷ mẫu 4Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, nếu cổ tích có "Tấm Cám", truyện ngụ ngôn có "Thầy bói xem voi" thì truyền thuyết có "Ta và Mị Châu - Trọng Thủy". Truyền thuyết là "nghệ thuật lựa chọn các sự kiện và nhân vật để xây dựng các hình tượng nghệ thuật, phản ánh tập trung nhất lịch sử của địa phương, quốc gia, dân tộc... Nếu lịch sử cố gắng phản ánh chính xác các sự kiện và nhân vật, thì truyền thuyết lại quan tâm hơn đến sự lay động tình cảm và niềm tin của người nghe sau những sự kiện và nhân vật đó." Đây có thể xem là câu chuyện bi kịch đầu tiên trong văn học dân tộc, nó đã lấy đi không ít nước mắt cũng như sự căm phẫn của người đọc. Tuy nhiên, cũng chính vì thế mà ta đã rút ra được bài học cho chính mình đừng quá chủ quan, khinh thường địch mà chuốc lấy thất bại. Truyền thuyết "Ta và Mị Châu, Trọng Thủy", trích truyện "Rùa Vàng" trong "Lĩnh Nam chích quái", đã nói lên chiến công của ta là vua Âu Lạc xây thành, chế nỏ, giữ nước thành công và bi kịch tình yêu của Mị Châu gắn liền bi kịch mất nước của buổi đầu dựng nước, ta đã rất có công với dân tộc. Ta cho xây thành Cổ Loa với hi vọng nhân dân sẽ được ấm no hạnh phúc. Việc xây thành mãi vẫn không thành công, ta bèn cầu trời phật, giữ cho tâm mình trong sạch. Điều đó đủ để thấy tâm huyết của ta dành cho dân tộc là như thế nào. Nhờ sự giúp đỡ của sứ Thanh Giang cùng với tấm lòng yêu nước thương dân của ta, chỉ nửa tháng sau, thành đã được xây xong. Có lẽ ta đã vui mừng khôn xiết khi thấy điều đó. Ta còn lo cho vận mệnh đất nước khi tâm sự mối băn khoăn lại bị Đà xâm chiếm với thần Kim Quy. Thần đã cho ta một cái vuốt. Ta đã làm thành nỏ, cái nỏ ấy có thể bắn ra hàng ngàn mũi tên chỉ trong một lần bắn nhân dân gọi là nỏ thần. Nước Âu Lạc nhờ thế nên đã được sống trong thái bình thịnh trị. Ta thấy rằng ta quả là một vị minh quân, một người biết nhìn xa trông rộng, biết lo trước những mối lo của thiên cũng chính vì thế cũng đã hình thành tính tự mãn của ta. Khi Đà sang cầu hôn, ta đã đồng ý gả con gái mình cho con trai Đà là Trọng Thủy. Cuộc hôn nhân giữa hai nước vốn đã có hiềm khích là sự dự báo cho những mối hiểm họa về sau."Một đôi kẻ Việt người TàuNửa phần ân ái nửa phần oán thương""Một đôi kẻ Việt người Tàu" lấy nhau như thế là một sự nguy hiểm khôn lường. Thế nhưng ta không hề màng tới điều đó. Có lẽ ta chỉ mong hai nước sớm thuận hòa qua cuộc hôn nhân này và nhân dân sẽ không phải chịu cảnh khổ đau. Nhưng ta không biết được, kẻ thù dù quỳ dưới chân ta thì chúng vẫn vô cùng nguy hiểm. Ta nghĩ cho dân, nghĩ đến cái lợi trước mắt nhưng lại không nghĩ đến những điều nguy hiểm sắp đến. Vì thế, ta đã đưa cả cơ đồ "đắm biển sâu".Sự tự mãn là bạn đồng hành của thất bại. Có nỏ thần trong tay, ta dường như đã nắm chắc phần thắng trong tay. Đỉnh điểm là lúc được báo Triệu Đà sang đánh chiếm thì ta "vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng 'Đà không sợ nỏ thần sao?'" ta đã bước vào vết xe đổ của người xưa, để rồi lúc nguy cấp nhất, ta mới lấy nỏ thần ra bắn và biết là nỏ giả, liền dắt con gái bỏ chạy về phương Nam. Trong lúc cấp bách, ta chỉ biết mỗi việc bỏ chạy chứ không còn cách đối kháng nào khác. Khi ra đến biển Đông, ta còn không nhận ra được đâu là giặc, ta chỉ ngửa mặt kêu "trời" mà không biết phải làm gì. Đến khi thần Rùa Vàng hiện lên và nói "Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó!" thì ta đã rút gươm chém con gái của mình. Hành động dứt khoát, không do dự ấy đã chứng minh ta là một vị minh quân. Ta đặt việc nước lên trên việc nhà, không để việc riêng làm lung lay ý chí. Thần Rùa Vàng hay chính thái độ của nhân dân lao động đã bổ sung mọi khiếm khuyết cho ta. Khi ta không xây được thành, thần hiện lên giúp đỡ, khi ta lo cho vận mệnh đất nước, thần cũng hết sức chỉ bảo ta và lúc này, khi nguy cấp nhất, thần cũng hiện lên để giúp ta. Phải chăng đó là sự ngưỡng mộ, sự tha thứ cho một vị minh quân của nhân dân? Chi tiết "vua cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển" đã chứng minh điều đó. Biển cả đã mở rộng tấm lòng đón ta về. Những con sóng trôi dạt vào bờ lại bị bật ra năm nào liệu có còn nhớ hình ảnh hai cha con tội nghiệp?Nếu như kì tích xây thành Cổ Loa là một chiến thắng vẻ vang mang tính huyền thoại thì sự thất bại lần này của ta mang tính hiện thực sâu sắc. Và bi kịch nước mất nhà tan ấy xuất phát từ mối tình duyên của Mị Châu và Trọng Thủy. Mị Châu là con An Dương Vương, là vợ Trọng Thủy và là con dâu của Triệu Đà. Nàng rất ngây thơ, yêu Trọng Thủy với một tình yêu trong sáng của con gái. Nàng đã trao cho Trọng Thủy tất cả trái tim mình. Mấu chốt chính là lúc nàng chỉ cho Trọng Thủy xem nỏ thần. Nỏ thần là bí mật quốc gia, là việc đại sự, thế mà nàng lại "vô tư" đến mức đưa cho Trọng Thủy xem. Nàng u mê, ngu muội đến mức lầm lẫn giữa "tình nhi nữ" và "việc quân vương". Còn gì đau xót hơn chăng? Nếu xét về khía cạnh một người vợ thì Mị Châu là một mẫu hình lí tưởng cho chữ "tòng" thời ấy. Nhưng không chỉ là một người vợ, Mị Châu còn là công chúa của nước Âu Lạc. Khi đã tráo được nỏ thần, Trọng Thủy biện cớ về thăm cha. Trước khi đi, chàng nói với Mị Châu "Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?". Câu nói đầy ẩn ý của Trọng Thủy thế mà Mị Châu không nhận ra. Nàng yêu Trọng Thủy đến mức còn không thèm đặt ra câu hỏi tại sao hai nước phải thất hòa, tại sao Bắc Nam phải cách biệt trong khi ta đã là "người một nhà". Nàng chỉ hướng về hạnh phúc lứa đôi, mong đến ngày sum họp "Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau". Câu nói của Mị Châu là lời nói của một người vợ yêu chồng tha thiết. Nhưng nàng không biết rằng hành động của nàng đã cho Triệu Đà chiến thắng vua cha, cho Trọng Thủy đuổi theo giết cha mình."Lông ngỗng rơi trắng đường chạy nạnNhững chiếc lông không tự biết giấu mình"Khi bị giặc truy đuổi, Mị Châu đã mặc chiếc áo lông ngỗng trên mình. Chiếc áo hóa trang lông ngỗng là trang phục của người phụ nữ Việt xưa trong những dịp lễ hội. Thế nhưng Mị Châu lại mặc nó vào lúc nguy cấp như thế này. Điều đó cho thấy nàng đã không còn lí trí sáng suốt nữa. Mọi hành động của nàng đều bị tình cảm vợ chồng chi phối. Trước khi bị vua cha chém đầu, nàng đã nói "Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù". Nàng đã nhận ra được chân tướng sự việc, rằng người nàng đã yêu, đã tin tưởng bấy lâu nay chỉ là kẻ lừa bịp. Cái chết của Mị Châu là sự hóa thân không trọn vẹn, xác biến thành ngọc thạch, máu biến thành châu ngọc. Điều đó cho thấy sự cảm thông của nhân dân ta với Mị Châu, một người đã "vô tình" đưa nước Việt vào một ngàn năm nô như cổ tích, cái kết luôn có hậu cho mọi người. Truyền thuyết buộc ta phải suy ngẫm thật nhiều sau đó. Chúng ta phải biết đặt cái chung lên trên cái riêng, nhất là phải cảnh giác, đừng như ta "nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà". Và trong tình yêu phải luôn luôn sáng suốt, đừng nên lầm đường lạc lối để rồi phải trả một cái giá quá đắt như Mị Châu. Truyện vừa mang tính triết lí vừa thấm đậm ý vị nhân sinh như Tố Hữu trong "Tâm sự" đã nói"Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầuBởi đầu cụt nên tượng càng rất sốngCái đầu cụt gợi nhớ dòng máu nóngHai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn tràoAnh cũng như em muốn nhắc Mị ChâuĐời còn giặc xin đừng quên cảnh giácNhưng nhắc sao được hai ngàn năm trướcNên em ơi ta đành tự nhắc mình"Nhập vai An Dương Vương kể lại Truyện Mị Châu - Trọng Thuỷ mẫu 5Hôm nay, ta thành thật thú nhận tội lỗi của mình đã vô tình để xảy ra cho đất nước nhân dân Âu Lạc một cuộc chiến tranh mà đáng lẽ không thể là An Dương Vương, vị vua đã xây nên thành Cổ Loa bền vững và đã được thần Kim Quy trao tặng cái lẫy thần nên giữ được bình yên cho muôn dân. Lúc đó, Triệu Đà sang xâm lược nhiều lần nhưng hắn phải thất bại trước cái nỏ thần linh thiêng kì diệu ấy Chỉ cần một mũi tên bắn ra là có biết bao quân sĩ gục ngã. Tức giận, hắn chờ đợi thời cơ; còn ta tự đắc trước những chiến công nên không dè dặt nghĩ đến những âm mưu hiểm độc của Triệu ngày kia, một tên tâm phúc của Triệu Đà mang lễ vật đến xin cầu hòa. Ta nhận lời ngay vì không muốn kéo dài binh đao khói lửa. Từ đó, hắn cho con trai là Trọng Thủy sang lân la với con gái ta là Mị Châu. Trọng Thủy là chàng trai lịch lãm nên hắn dễ dàng lấy được lòng cha con ta. Thế rồi, Triệu Đà chính thức mang lễ vật đến cầu hôn Mị Châu cho Trọng Thủy. Đã từ lâu Mị Châu cũng phải lòng Trọng Thủy rồi nên ta không có lí do gì mà từ chối. Chúng cưới nhau và sống hết sức thuận hòa hạnh phúc. Nhưng đối với ta, Trọng Thủy có vẻ hơi khác thời gian, Trọng Thủy xin phép về thăm cha rồi không bao lâu quay trở lại. Ta cho quân bày yến tiệc và rót rượu cho Trọng Thủy nhưng hắn từ chối. Ngược lại, hắn lại mời ta uống liên tiếp đến nỗi ta say mèm chỉ thoáng thấy bóng hắn vụt qua rồi ta không biết gì nữa. Đến khi tỉnh lại, ta thấy Trọng Thủy đang ngồi bên cạnh ta cung kính nói– Thưa nhạc phụ, người đã khỏe chưa?– Ta khỏe rồi. Sao con không đến với Mị Châu? Ta thì thào.– Hiền thê đã có nô tì chăm sóc rồi! Hắn nhỏ nhẹ lại nói tiếp– Được rồi, con cứ đến thăm vợ con kính cẩn chào– Xin phép nhạc phụ, con cả những nghi ngờ trong ta từ trước đến nay đã tan biến hết. Đang sống yên vui, bất ngờ Trọng Thủy lại xin về nước khiến Mị Châu buồn bã vô cùng. Chỉ mấy ngày sau, Triệu Đà ùn ùn kéo đại quân sang. Ta ngạc nhiên quá, nhưng tin tưởng vào nỏ thần nên vẫn ung dung ngồi đánh cờ chờ quân giặc đến gần thành rồi bắn luôn. Không ngờ, nỏ thần hết hiệu nghiệm mà quân thù đang đi vào thành. Vừa hoảng sợ và thắc mắc ta không hiểu nổi lí do nào mà nỏ thần không còn ứng nghiệm nữa. Cuối cùng trước tình thế cấp bách ta cùng Mị Châu lên ngựa tháo chạy về phía đông. Nhưng chạy đến đâu cũng nghe tiếng reo hò quân giặc đuổi theo. Cùng đường, ta hướng mắt về phía biển khơi gọi thần Kim Quy cứu giúp. Bỗng thần nổi lên và dõng dạc nói "Giặc ở sau lưng nhà vua đó!".Ta quay lại nhìn thì chỉ có Mị Châu với chiếc áo lông ngỗng đã trụi cả lông. Ta chợt hiểu ra tất cả. Thì ra bọn giặc dò theo dấu lông ngỗng để đến được đây. Và cũng chính Mị Nương, đứa con gái thơ ngây của ta đã vô tình tiết lộ bí mật quốc gia cho tên gián điệp Trọng Thủy cho nên ta mới có ngày này. Quá tuyệt vọng, không còn con đường nào khác ta rút gươm ra chém chết Mị Châu rồi tự tử. Nhưng thần Kim Quy lại rẽ mặt nước cho ta đi xuống là câu chuyện sự thật của đời ta, của vua An Dương Vương đã không cảnh giác trước kẻ thù nên cơ nghiệp bị sụp đổ. Ta mong rằng những kẻ kế vị sau này xem đây là bài học xương máu mà giữ vai An Dương Vương kể lại Truyện Mị Châu - Trọng Thuỷ mẫu 6Sau khi kế tục sự nghiệp dựng nước của 18 đời Hùng vương, An Dương Vương Thục Phán đã đánh tan năm mươi vạn quân Tần xâm lược; đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc và dời dô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh, Phong Châu xuống vùng Phong Khê, hay còn gọi là vùng Kẻ Chủ, tức cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội ngày Dương vương bắt tay ngay vào việc xây thành nhưng ngặt nỗi cứ ngày xây lên đêm lại đổ xuống, mãi không xong. Nhà vua bèn sai các quan lập đàn để cẩu đảo bách thần, xỉn thần linh phù trợ. Ngày mồng bảy tháng ba năm ấy, nhà vua bỗng thấy cỏ một cụ già râu tóc bạc phơ, tay chống cây gậy trúc, thong thả từ phía Đông đi tới trước cổng thành, ngửa cổ mà than rằng “Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong được!”. Mừng rỡ, An Dương Vương rước cụ già vào trong điện, kính cẩn hỏi rằng “Ta đắp thành này đã tốn nhiều công sức mà không được, là cớ làm sao?”. Cụ già thong thả đáp “Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thì mới thành công”. Nói xong, cụ già từ biệt ra hôm sau, có một con rùa lớn nổi lên mặt nước, tự xưng là sứ Thanh Giang, bảo với An Dương Vương rằng muốn xây được thành thì phải diệt trừ hết lũ yêu quái thường hay quấy nhiễu. Quả nhiên, sau khi Rùa Vàng giúp nhà vua diệt trừ yêu quái thì chỉ khoảng nửa tháng là thành đã xây xong. Thành xây theo hình trôn ốc, rộng hơn ngàn trượng nên gọi là thành Ốc hay Loa Thành. Rùa Vàng ở lại ba năm thì ra đi. Lúc chia tay, An Dương vương cảm tạ nói “Nhờ ơn Thần mà thành đã xây xong. Nay nếu có giặc ngoài đến thì lấy gì mà chống?”. Rùa Vàng tháo một chiếc vuốt trao cho An Dương Vương, dặn hãy lấy làm lẫy nỏ. Giặc đến, cứ nhằm mà bắn thì sẽ không lo gì nữa. Dứt lời, Rùa Vàng trở về biển Đông. Nhà vua sai một tướng tài là Cao Lỗ chế ra chiếc nỏ lớn lấy vuốt của Rùa Vàng làm lẫy. Đó là nỏ thần Kim lâu sau, Triệu Đà đem quân sang xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương lấy nỏ thần ra bắn, mỗi phát chết hàng vạn tên giặc. Chúng hoảng sợ quay đầu chạy về đến núi Trâu, cầm cự được vài ngày rồi rút về nước. Dân chúng Âu Lạc hân hoan mừng chiến thắng vẻ vang của vị vua tài không nuốt nổi Âu Lạc bằng phương cách tấn công, Triệu Đà nghĩ ra một âm mưu thâm hiểm khác. Hắn cho con trai là Trọng Thủy qua cầu hôn Mị Châu, con gái yêu của An Dương Vương. Không chút nghi ngờ, nhà vua vui lòng gả và còn cho phép Trọng Thủy được ở rể trong Loa lời cha dặn, Trọng Thủy ngầm để ý dò xét khắp nơi và rắp tâm phát hiện bằng được bí mật của nỏ thần. Mị Châu nhẹ dạ, lại thực lòng yêu thương chổng nên đã đưa Trọng Thủy vào tận nơi cất giấu nỏ thần. Trọng Thủy chế ra chiếc lẫy giống y như thật rồi đánh tráo, thay vuốt Rùa Vàng. Xong việc, Trọng Thủy nói với vợ “Tình vợ chổng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta trở lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?”. Mị Châu ngây thơ đáp “Thiếp có cái áo lông ngỗng thường mặc, khi gặp biến, đi đến đâu sẽ rắc lông ngỗng ở ngã ba đường làm dấu mà tìm nhau”.Trọng Thủy về đến nhà, Triệu Đà lập tức cất binh sang đánh Âu Lạc. Nghe tin báo hàng chục vạn quân giặc đã tràn sang, cậy có nỏ thần, An Dương vương vẫn ngồi ung dung đánh cờ và cười nói “Đà không sợ nỏ thần sao?” Quân Đà tiến sát cổng thành, vua mới sai lấy nỏ thần ra bắn nhưng không linh nghiệm cha con đành lên ngựa, nhằm hướng phương Nam mà chạy, nhưng chay đến đâu quân giặc cứ theo dấu lông ngỗng mà đuổi theo đến đó. Ra tới sát bờ biển, An Dương vương cùng đường bèn kêu lớn “Sứ Thanh Giang ở đâu mau đến cứu ta!”. Ngay lập tức, Rủa Vàng hiện lên, chỉ tay vào Mị Châu mả nói với An Dương Vương rằng “Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó!”. Hiểu ra cơ sự, An Dương Vương nổi giận, tuốt gươm định chém Mị Châu thì vừa lúc ấy, Trọng Thủy cũng đến nơi. Chàng lao vào đỡ nhát kiếm oan nghiệt của An Dương Vương thay cho người vợ thân yêu. Bỗng nhiên, mặt nước rẽ ra, Rùa Vàng đón An Dương Vương xuống biển. Mị Châu nước mắt chan hòa, vùng chạy theo cha nhưng những đợt sóng giận dữ tung bọt trắng xóa đã ngăn bước chân nàng. Nàng gục xuống bên xác chồng, nức vai nhân vật An Dương Vương kể lại Truyện Mị Châu - Trọng Thuỷ mẫu 7Trong kho tàng văn học của Việt Nam, em thích nhất là câu chuyện “An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy” vì đó là một trong những câu chuyện tiêu biểu cho thể loại truyền thuyết. Truyện khái quát để chúng ta hiểu thêm về việc An Dương vương xây thành và chế tạo nỏ thần cũng như giúp chúng ta hiểu thêm về mối tình bi kịch giữa Mị Châu -Trọng Thủy và nguyên nhân mất nước Âu Lạc của An Dương Dương Vương là vua nước Âu Lạc. Khi vua xây thành, hễ đắp tới đâu lại lỡ tới đấy nên vua bèn lập đàn trai giới cầu thần. Đến ngày mồng bảy tháng ba, bỗng thấy có một cụ già từ phương đông tới, vua lập tức mời vào và hỏi chuyện. Cụ già nói rằng sẽ có sứ Thanh Giang tới giúp nhà vua xây thành rồi ra về. Ngày hôm sau, có một con Rùa Vàng từ phương đông lại và tự xưng là sứ Thanh Giang đến giúp vua. Nhờ sự giúp đỡ của Rùa Vàng mà chỉ trong vòng nửa tháng, thành đã được xây xong. Thành có hình trôn ốc nên được gọi là Loa thành. Sau ba năm, Rùa Vàng từ biệt ra về. An Dương Vương suy nghĩ về việc giữ nước nên đã hỏi ý kiến của Rùa Vàng. Rùa Vàng bèn trao cho nhà vua móng vuốt của mình và dặn vua hãy lấy đó làm lẫy thời gian sau, Triệu Đà đem quân sang xâm lược, vua bèn lấy nỏ thần ra bắn. Quân của Triệu Đà thua to, bèn cầu hòa. Chính nhờ yếu tố thần kì về Rùa Vàng đã giúp An Dương Vương đạt được ý nguyện chính đáng mà cũng phù hợp với ý nguyện của nhân dân, của trời bao lâu sau, Triệu Đà cầu hôn. An Dương Vương gả con gái của mình là Mị Châu cho con trai của Đà là Trọng Thủy. Trọng Thủy lừa Mị Châu cho coi lẫy rời làm một cái khác thay thế cho vuốt Rùa Vàng. Trọng Thủy nói dối Mị Châu để chạy về phương Bắc. Sau khi có được nỏ thần, Triệu Đà đem quân sang xâm chiếm. An Dương Vương chủ quan nên đã bị thất bại. Ta thấy được bi kịch mất nước Âu Lạc là do sự chủ quan của An Dương Vương và Mị Châu. An Dương Vương làm mất nước do chủ quan, khinh địch, mất cảnh giác với kẻ thù. Mị Châu đã mất cảnh giác khi cho Trọng Thủy xem nỏ thần. Mị Châu đã đặt chữ tình, đặt nặng trách nhiệm của một người vợ lên trên quốc gia, dân tộc. Lời kết tội của Rùa Vàng “Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó” đại diện cho công lí, đứng trên quyền lợi của nhân dân, tổ quốc để phán xét hành động vô tình phản quốc của Mị Châu. Khi chém chết Mị Châu, An Dương Vương đã đứng vào quyền lợi của quốc gia, tổ quốc để phán xét Mị việc mất nước Âu Lạc, ta rút ra được bài học là cần phải biết xử lí đúng đắn mối quan hệ chung va riêng, cá nhân và nhà nước. Mị Châu đã không đặc trách nhiệm lên trên tình cảm để rồi gây ra việc mất khi giết chết Mị Nương, An Dương Vương đã cầm sừng tê bảy tất rẽ nước theo Rùa Vàng đi xuống biển. Sự việc này chứng tỏ rằng An Dương Vương không chết trong lòng của nhân dân, có được sự tôn trọng, ủng hộ của nhân Thủy sau khi chiếm được nước Âu Lạc đã lần theo dấu lông ngỗng mà Mị Châu đã rắc từ trước. Khi đến nơi quân Đà không thấy bóng dáng gì trừ xác của Mị Châu. Trọng Thủy thương tiếc Mị Châu vô cùng để rồi một lần tưởng thấy bong giáng Mị Châu dưới giếng nên lao đầu xuống dưới mà chết. Người đời sau cho rằng khi lấy ngọc ở biển Đông mà rửa tại giếng này thì ngọc sẽ sang thêm. Chi tiết này cho chúng ta thấy được cái nhìn bao dung của nhân qua hình tượng nhân vật và những chi tiết hư cấu trong truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy” nhân dân ta đã giải thích nguyên nhân mất nước Âu Lạc. Qua đó nhân dân ta muốn nên lên bài học lịch sử về tinh thần cảnh giác với kẻ thù và cách xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa riêng và chung, giữa nhà với nước, giữa cá nhân với cộng vai An Dương Vương kể lại Truyện Mị Châu - Trọng Thuỷ mẫu 8Câu chuyện xảy ra trong thời gian đầu xây dựng và bảo vệ đất nước. Ta là An Dương Vương Ta là An Dương Vương với mong muốn xây dựng đất nước vững mạnh nhân dân ấm no và ngăn chặn được giặc ngoại xâm, ta cho xây dựng thành Cổ Loa nhưng thật kì lạ thành xây mãi vẫn không xong. Với sự giúp đỡ của sứ giả Thanh Giang chỉ trong thời gian ngắn thành đã xây xong. Thần Kim Quy còn trao lại móng vuốt và làm ra nỏ thần với khả năng tiêu diệt địch trong thời gian ngắn giúp ngăn ngừa mối họa từ quân Triệu Đà. Vậy là từ đây đất nước sẽ sống trong hòa bình, nhân dân no mưu của kẻ địch thật sâu xa khó lường, biết không thể thắng quân Âu Lạc hắn làm kế hoãn binh và cử con trai là Trọng Thủy sang làm rể, vốn mong muốn hòa bình và nhận thấy con gái Mị Châu rất thích Trọng Thủy nên cuối cùng ta đã đồng ý cho kết ý định từ trước Trọng Thủy đã đánh tráo nỏ thần và lấy cớ về nước để thăm cha. Chỉ một thời gian ngắn sau Triệu Đà mang quân sang xâm lược, ỷ có nỏ thần trong tay nên ta vẫn ung dung, nhưng thật kỳ lạ nỏ thần không còn phát huy tác dụng, biết đã bị lừa và tình hình nguy cấp ta bèn mang Mị Châu tháo chạy về hướng đến đường cùng ta kêu lớn- Sứ giả Thanh Giang mau ra cứu xuất hiện và bèn đáp lời- Giặc ngay sau lưng nhà thấy những chiếc lông ngỗng mà Mị Châu rải trên đường đã giúp dẫn đường cho quân địch và ta đã hiểu rằng chỉ vì sự cả tin của Mị Châu mà nỏ thần bị đánh cắp. Ta hét lớn và vung kiếm chém chết đứa con gái yêu quý. Nước mất nhà tan, quá thất vọng ta đành vung kiếm tự tử nhưng thần Kim Quy cứu mạng bằng cách dùng năng lực rẽ nước giúp ta đi xuống đời vì quá tin người và mất cảnh giác trước kẻ địch đã khiến cả cơ đồ bị hủy hoại trong phút chốc. Đây là bài học thấm thía mà ta và cả thế hệ mai sau phải khắc vai An Dương Vương kể lại Truyện Mị Châu - Trọng Thuỷ mẫu 9Ta là An Dương Vương vị vua trị vì của nước Âu Lạc, hôm nay ta sẽ kể lại cuộc đời cũng như thời gian ta trị vì nhà nước Âu Lạc. Ngày đó ta cho xây dựng thành Cổ Loa để bảo vệ đất nước nhưng nhiều lần xây đều bị thất bại. Một hôm có sứ giả Thanh Giang đến giúp đỡ ta và ta đã xây dựng được thành, trước khi rời đi thần rùa còn cho ta một chiếc móng vuốt dặn làm nỏ, nó sẽ giúp ta đánh đuổi được quân xâm Triệu Đà sang xâm lược nước ta, nhiều lần nhờ có nỏ thần mà ta đã đánh đuổi được quân Triệu Đà. Triệu Đà lui quân về bày mưu tính kế thâm hiểm, cho con trai là Trọng Thủy sang cầu hòa và cầu hôn Mị Châu con gái của ta, hắn đồng ý ở rể. Vì nhẹ dạ cả tin nên ta đã đồng gian qua đi, Trọng Thủy dựa vào lòng tin của Mị Châu đã thuyết phục được Mị Châu cho xem nỏ thần và hắn đã đánh tráo nỏ thần, mang về nước cho cha của thời gian ngắn sau đó, Triệu Đà lại cho quân sang xâm lược nước ta, vì chủ quan có nỏ thần ta đã không phòng bị gì khi quân giặc đến, hậu quả là ta đã để mất nước vào tay cùng Mị Châu lên ngựa bỏ trốn ra biển, khi đến bên bờ biển, thần kim quy hiện lên và nói "Giặc ở sau lưng ngươi" và ta đã không ngần ngại rút kiếm chém chết đứa con gái yêu quý. Còn ta rẽ nước xuống biển cùng với thần kim quá tin người và mất cảnh giác với những người xung quanh khiến ta nước mất nhà tan, tất cả sự nghiệp của ta bị hủy hoại chỉ trong phút chốc. Đây là một bài học đắt giá cho chính bản thân ta và tất cả thế hệ trẻ sau này cần phải khắc ghi, thận trọng trong mỗi việc làm của đã chia sẻ tới các bạn học sinh bài Hóa thân thành An Dương Vương kể lại Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cần có trong bài rồi đúng không ạ? Bài viết cho chúng ta thấy được cách hóa thân thành nhân vật An Dương Vương để lại chính câu truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy. Thấy được quá trình xây dựng thành cho đến hành trình tiêu diệt quân Triệu Đà. Thấy được sự chủ quan của An Dương Vương để rồi bị mất nước vào tay giặc. Hãy lên tinh thần cảnh giác với kẻ thù và cách xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa riêng và chung, giữa nhà với nước, giữa cá nhân với cộng đồng. Với 9 bài văn mẫu hy vọng sẽ giúp các bạn có thêm nhiều ý tưởng cho bài văn của mình, đồng thời các bạn có thể tham khảo nhiều bài văn mẫu khác tại Văn mẫu lớp 10-Trên đây đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu Hóa thân thành An Dương Vương kể lại Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ. Hi vọng qua bài viết bạn đọc có thể học tập được tốt hơn. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh cùng tham khảo thêm một số tài liệu học tập tại các mục Đề thi học kì 1 lớp 10, Thi thpt Quốc gia môn Văn, Thi thpt Quốc gia môn Địa lý, Thi thpt Quốc gia môn Lịch sử mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.
Nhập vai An Dương Vương và kể lại truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng ThủyHóa thân thành nhân vật An Dương Vương để kể lại truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy là dạng bài thường gặp trong chương trình Ngữ văn lớp 10. Trong bài viết này Haotieu xin chia sẻ một số bài văn mẫu đóng vai nhân vật An Dương Vương kể lại câu chuyện An Dương Vương Mị Châu Trọng Thủy hay và chi tiết giúp các bạn hiểu rõ hơn nỗi đau mất 5 bài cảm nhận về nhân vật An Dương Vương siêu hay1. Đóng vai nhân vật An Dương Vương kể lại câu chuyệnTa là An Dương Vương, vị vua của nước Âu Lạc năm nào. Ngồi dưới thuỷ cung ngắm cá bơi lội, nghe tiên nữ hát ca mà lòng ta vẫn âu lo nỗi buồn. Nhớ năm xưa, chuyện ta dựng nước rồi làm mất nước mà đau đớn vô đó, sau khi lên ngôi vua, ta bèn nghĩ việc xây thành. Nhưng khốn đốn thay, xây thành ở đất Việt Thường hễ đắp tới đâu lại lở tới đấy. Nghe nói vì đất nơi này còn vương vẩn những hồn ma của các vị tướng bại trận mà họ không cho ta thuận lợi đắp thành. Ta lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần. Ngày mồng bảy tháng bảy ta bỗng thấy một cụ già từ phương Đông đứng trước cửa thành mà than rằng “ Xây dựng thành này bao giờ cho xong được”. Ta thấy thế, mừng rỡ lắm, đón vào trong điện, thi lễ hỏi lý do đắp thành mãi không xong thì cụ già trả lời “ Sẽ có xứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thành mới thành công”, rồi từ biệt ra lời đó, ngày hôm sau ta đứng ngoài cửa đông chờ đợi, và bất ngờ thấy một con Rùa Vàng nổi lên mặt nước, nói sõi tiếng người, xưng là sứ Thanh Giang, ta mừng rỡ vội vã dùng xe nghênh đón, rước Rùa Vàng vào thành. Nhờ sự giúp đỡ của Rùa Vàng, thành sau nửa tháng thì xong. Ngắm nhìn thành mới mà lòng ta vui sướng. Thành rộng hơn ngàn trượng, xoắn ốc nên ta gọi nó là Loa Vàng ở với thành ta được ba năm rồi ra về. Trước khi đi, ta bày tỏ lòng thành kính cảm tạ và hỏi thần nếu giặc đến, làm thế nào giữ nước. Rùa Vàng nghe hỏi rồi tháo vuốt đưa ta, dặn “ Đem vật này làm lẫy nỏ, nhằm quân giặc mà bắn thì không lo gì nữa”Nghe lời thần, ta đưa Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy và đặt tên là “ Linh quang Kim Quy thần cơ”. Thời gian sau, quân Triệu Đà cử binh xâm lược nước ta, ta lấy nỏ thần ra bắn, làm quân giặc khiếp sợ và thua trận, chạy về Trâu Sơn đắp luỹ và xin bao lâu sau, Đà cầu hôn. Ta gả con gái xinh đẹp Mị Châu cho con trai Đà là Trọng Thuỷ và để cho hắn ở lại cung. Nhưng đó quả thật là sai lầm. Ta không nghĩ đến rằng, con rể lại dụ dỗ Mị Châu ngây thơ cho xem nỏ thần rồi đánh tráo nỏ thần mang về phương được nỏ thần, Triệu Đà mang quân đến đánh. Khi đó ta vẫn chưa biết chuyện, vẫn ung dung chơi cờ vì nỏ thần còn trong tay thì ta chẳng sợ gì. Nhưng éo le thay, khi ta biết nỏ kia không phải nỏ thần thì quá muộn, giặc đã tiến sát thành, ta phải cùng Mị Châu lên ngựa bỏ chạy về phương càng chạy thì ta vẫn thấy giặc đuổi theo sau. Đến tới bờ biển, ta biết đó là đường cùng. Ta bèn kêu rằng “ Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu” Rùa Vàng từ dưới nước xuất hiện, thét lớn “ Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó”. Ta bất ngờ quay lại nhìn thấy đường rải đầy lông ngỗng, trên tay con gái Mị Châu là áo lông ngỗng, ta hiểu ra chuyện và vô cùng tức giận. Ta tức giận vừa đau lòng mà tuốt kiếm chém Mị Châu. Mị Châu thấy vậy, bèn khấn với ta “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Dù đau lòng nhưng là một kẻ phản nghịch, tội đồ quốc gia ta không thể tha thứ với cương vị một người đứng đầu đất theo Rùa Vàng xuống biển. Mị Châu con ta chết ở bờ biển, máu chảy xuống nước, trai ăn vào tạo thành hạt châu. Trong Thuỷ đến đó, thấy con ta đã chết, ôm xác về táng ở Loa Thành, xác biến thành ngọc thạch. Con ta chết, Trọng Thuỷ cũng đau đớn, nhớ mong mà tự tử ở giếng. Nước giếng đó rửa ngọc ở biển Đông thì ngọc vô cùng sáng và đẹpCâu chuyện năm nào được nhân dân ta truyền nhau khiến ta càng day dứt không yên. Chỉ vì những phút giây thiếu cảnh giác mà ta làm mất nước. Đó là bài học xương máu, đau đớn dành cho Hóa thân vua An Dương Vương kể lại câu chuyện ngắn gọnTa là An Dương Vương, vị vua đã xây nên thành Cổ Loa bền vững và đã được thần Kim Quy trao tặng cái lẫy thần nên giữ được bình yên cho muôn dân. Lúc đó, Triệu Đà sang xâm lược nhiều lần nhưng hắn phải thất bại trước cái nỏ thần linh thiêng kì diệu ấy Chỉ cần một mũi tên bắn ra là có biết bao quân sĩ gục ngã. Tức giận, hắn chờ đợi thời cơ; còn ta tự đắc trước những chiến công nên không dè dặt nghĩ đến những âm mưu hiểm độc của Triệu ngày kia, một tên tâm phúc của Triệu Đà mang lễ vật đến xin cầu hòa. Ta nhận lời ngay vì không muốn kéo dài binh đao khói lửa. Từ đó, hắn cho con trai là Trọng Thủy sang lân la với con gái ta là Mị Châu. Trọng Thủy là chàng trai lịch lãm nên hắn dễ dàng lấy được lòng cha con ta. Thế rồi, Triệu Đà chính thức mang lễ vật đến cầu hôn Mị Châu cho Trọng Thủy. Đã từ lâu Mị Châu cũng phải lòng Trọng Thủy rồi nên ta không có lí do gì mà từ chối. Chúng cưới nhau và sống hết sức thuận hòa hạnh phúc. Nhưng đối với ta, Trọng Thủy có vẻ hơi khác thời gian, Trọng Thủy xin phép về thăm cha rồi không bao lâu quay trở lại. Ta cho quân bày yến tiệc và rót rượu cho Trọng Thủy nhưng hắn từ chối. Ngược lại, hắn lại mời ta uống liên tiếp đến nỗi ta say mèm chỉ thoáng thấy bóng hắn vụt qua rồi ta không biết gì nữa. Đến khi tỉnh lại, ta thấy Trọng Thủy đang ngồi bên cạnh ta cung kính nói– Thưa nhạc phụ, người đã khỏe chưa?– Ta khỏe rồi. Sao con không đến với Mị Châu? Ta thì thào.– Hiền thê đã có nô tì chăm sóc rồi! Hắn nhỏ nhẹ lại nói tiếp– Được rồi, con cứ đến thăm vợ con kính cẩn chào– Xin phép nhạc phụ, con cả những nghi ngờ trong ta từ trước đến nay đã tan biến hết. Đang sống yên vui, bất ngờ Trọng Thủy lại xin về nước khiến Mị Châu buồn bã vô cùng. Chỉ mấy ngày sau, Triệu Đà ùn ùn kéo đại quân sang. Ta ngạc nhiên quá, nhưng tin tưởng vào nỏ thần nên vẫn ung dung ngồi đánh cờ chờ quân giặc đến gần thành rồi bắn luôn. Không ngờ, nỏ thần hết hiệu nghiệm mà quân thù đang đi vào thành. Vừa hoảng sợ và thắc mắc ta không hiểu nổi lí do nào mà nỏ thần không còn ứng nghiệm nữa. Cuối cùng trước tình thế cấp bách ta cùng Mị Châu lên ngựa tháo chạy. Nhưng chạy đến đâu cũng nghe tiếng reo hò quân giặc đuổi theo. Cùng đường, ta hướng mắt về phía biển khơi gọi thần Kim Quy cứu giúp. Bỗng thần nổi lên và dõng dạc nói "Giặc ở sau lưng nhà vua đó!".Ta quay lại nhìn thì chỉ có Mị Châu với chiếc áo lông ngỗng đã trụi cả lông. Ta chợt hiểu ra tất cả. Thì ra bọn giặc dò theo dấu lông ngỗng để đến được đây. Và cũng chính Mị Châu, đứa con gái thơ ngây của ta đã vô tình tiết lộ bí mật nỏ thần cho tên gián điệp Trọng Thủy cho nên ta mới có ngày này. Quá tuyệt vọng, không còn con đường nào khác ta rút gươm ra chém chết Mị Châu rồi tự tử. Nhưng thần Kim Quy lại rẽ mặt nước cho ta đi xuống là câu chuyện sự thật của đời ta, của vua An Dương Vương đã không cảnh giác trước kẻ thù nên cơ nghiệp bị sụp đổ. Ta mong rằng những kẻ kế vị sau này xem đây là bài học xương máu mà giữ Nhập vai An Dương Vương kể lại câu chuyện rồi rút ra bài họcTa là An Dương Vương, vua của nước Âu Lạc. Bây giờ ta đang ở dưới biển nhờ sự giúp đỡ của rùa vàng. Đến bây giờ ta vẫn nhớ như in việc ta đã làm mất nước ta vào tay kẻ thù như thế nào. Bây giờ ta sẽ kể lại cho mọi người chuyện đau lòng ấy mà có thể ta không bao giờ quên khi ta nổ lực xây thành nhưng hễ đắp đến đâu lại lỡ đến đấy. Một ngày nọ, ta gặp được Rùa Vàng và được ngài ấy giúp đỡ. Cuối cùng ta cũng xây được một ngôi thành kiên cố lấy tên là Loa Thành hay Cổ Vàng ở lại ba năm rồi cũng trở về. Trước khi về ngài đã lấy vuốt của mình và trao cho ta rồi bào “Người hãy đem vuốt này làm lẫy nỏ để chế tạo ra nỏ thần và chống lại quân giặc”. Ta cảm tạ Rùa Vàng và tiễn ngài ấy trở về. Sau đó, ta làm theo và giao việc làm lẫy nỏ cho Cao Lỗ. Thế là ta đã có được một chiếc nỏ thần và khi bắn ra thì có một trăm mũi tên bay ra và giết chết hàng trăm quân Triệu Đà tiến quân sang xâm lược nước Âu Lạc, may nhờ có nỏ thần mà ta chiến thắng được Triệu Đà. Sau đó không lầu, Triệu Đà sang cầu thân xin cho con trai của mình là Trọng Thủy được kết thân cùng với con gái của ta là Mị Châu – đứa con gái mà ta hết mực yêu thương. Nhưng vì tình giao hảo giữa hai nước, ta đã đồng ý với hắn. Vã lại, ta nghĩ mình đã có nỏ thần trong ta nên kẻ thù không làm gì nhìn lại Trọng Thủy, ta thấy hắn cũng là một người anh tuấn. Nhìn bề ngoài trông hắn cũng không đến nỗi là người xấu nên ta mới đồng ý gã con gái ta cho hắn, chỉ mong Mị Châu được hạnh phúc. Nhưng vì quá thương con, không nỡ rời xa đứa con thân yêu và sợ khi về nước chồng sẽ không được coi trọng và hạnh phúc nên ta liền nghị với Triệu Đà cho Trọng Thủy sang ở rễ. Nào ngờ, Triệu đà đồng ý ngay mà ta nào biết âm mưu của hắn. Mãi đến sau này, ta mới biết ta đã vô tình tiếp tay cho kế hoạch của thời gian ở rễ, Trọng Thủy luôn tỏ ra là một con người tốt nên ta cũng chẳng mảy may nghi ngờ mà nới lỏng phòng bị. Ta nào ngờ hắn lại lợi dụng đứa con gái ngây thơ của ta. Hắn dụ dỗ Mị Châu dẫn đến nơi cất dấu nỏ thần và đánh tráo. Sau khi đạt được mục đích, hắn xin về nước thăm cha. Mị Châu nghe vậy lòng buồn rười rượi nhưng cũng đồng lâu sau, quả thật Triệu Đà đã mang quân sang đánh. Ta ỷ lại có nỏ thần nên vẫn ung dung ngồi đánh cờ. Đến khi giặc tiến quân đến sát cửa thành, ta mới sai người đem nỏ thần ra bắn. Lúc này, ta mới phát hiện nỏ thần không còn và biết rằng nỏ thần đã bị lấy trộm và thủ phạm là Trọng Thủy – chồng của con gái mình. Thấy thế quân khó chống, ta leo lên lưng ngựa và để Mị Châu phía sau, phi ngựa về hướng Nam. Chạy ra đến biển mà giặc vẫn còn đuổi theo. Ta liền kêu lớn “Rùa vàng ơi mau đến cứu nguy”. Rùa Vàng hiện ra và nói “Giặc ở ngay sau lưng ngươi”. Câu nói ấy làm ta bất ngờ vì phía sau ta chỉ có đứa con gái yêu quý. Nhưng khi nhìn thấy tấm áo lông ngỗng của con gái trở nên xơ xác thì ta liền tỉnh ngộ và nhận ra mọi không muốn nhưng khi nghỉ đến việc nước mất nhà tan, làm hại bao nhiêu người dân vô tội thì ta đã tuốt kiếm xuống tay giết đi đứa con gái ruột của mình. Sau đó nhờ sự giúp đỡ của Rùa Vàng mà ta xuống được biển và ở lại đến ngày hôm nay. Sau này, ta biết Mị Châu đã nhận ra lỗi lầm mà mình đã gây nên. Mị Châu nói rằng “Nếu tấm lòng trung hiếu bị người đời lừa dối ta xin nguyện biến thành châu ngọc”. Sau khi chết, xác Mị Châu biến thành ngọc thạch, còn máu được trai ăn vào hóa thành ngọc trai. Điều đó nói lên sự trung hiếu của Mị Châu với đất nước. Sau đó Trọng Thủy cũng đau lòng mà bài học đắt giá này, ta muốn khuyên mọi người không nên chủ quan, khinh địch, dễ tin người, phải biết đặt lợi ích của mọi người lên trên lợi ích của cá nhân để không phải hối hận như Đóng vai An Dương Vương kể lại câu chuyện với ngôi thứ nhấtChuyện xảy ra đã lâu, nhưng mỗi khi nhắc tới, tôi lại không khỏi dằn vặt bản thân đã làm cơ đồ rơi vào tay giặc. Đến bây giờ, nỗi ăn năn, hối hận vẫn còn ám ảnh trong đây, tôi vốn là vua của nước Âu Lạc thân yêu, tên họ Thục Phán. Tôi có xây thành ở đất Việt Thường, nhưng ngặt nỗi đắp tới đâu lại lở ra tới đó. Tôi buồn bã, tôi thất vọng tràn trề. Tôi lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần, mong được sự giúp đỡ. Tôi luôn hi vọng có ai đó giúp tôi trong việc xây thành khó khăn này. Bất ngờ thay, ngày mồng bảy tháng ba, từ phương đông bỗng có một cụ già đến trước cửa thành mà than rằng "Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong được!". Tôi mừng rỡ, đoán biết là người tài mà mình đang cần chiêu mộ. Tôi liền sai người đón vào điện, làm nghi lễ chào mừng và bày tỏ nỗi lòng mình. Tôi thành thực mà giãi bày "Ta đắp thành này đã nhiều lần băng lở, tốn nhiều công sức mà không thành, thế là cớ làm sao?". Nghe xong, có già chỉ đáp "Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thành mới thành công". Cụ già nói xong rồi từ biệt ra về mà không kịp để tôi hỏi han thêm điều gì tối đêm ấy, tôi trằn trọc, băn khoăn không ngủ được. Tôi suy nghĩ về lời cụ già đó nói. Hôm sau, tôi ra cửa đông sớm, ngóng đợi. Chợt tôi thấy có một con rùa Vàng từ phương đông lại, nổi trên mặt nước. Kì lạ là nó nói sõi tiếng người và tự xưng là sứ Thanh Giang, thông tỏ việc trời đất, âm dương, quỷ thần. Tôi mừng rỡ vì biết người mình cần đã xuất hiện. Đúng như lời cụ già đã báo cho tôi trước đó, sứ Thanh Giang nay đã xuất hiện rồi. Tôi lập tức chuẩn bị nghi lễ ,dùng xe vàng rước vào trong xây nhanh hơn tôi nghĩ. Trong vòng nửa tháng, thành đã hoàn thành xong. Thành nhìn đẹp lắm. Tôi vẫn nhớ thành đó rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa Thành hay còn gọi là Quỷ Long Thành. Tôi mừng rỡ khi thành được xây dựng xong. Tôi cũng phần nào an tâm vì sự bình yên cho dân làng. Rùa Vàng ở lại với chúng tôi ba năm rồi từ biệt ra về. Lúc tiễn đưa, tôi đã gửi lời cảm tạ "Nhờ ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?". Rùa Vàng liền đáp lại "Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận. Nhà vua ước muốn ta có tiếc chi". Nói xong, Rùa Vàng bèn tháo vuốt đưa cho tôi và nói "Đem vật này làm lẫy nó, nhằm quân giặc mà bắn thì sẽ không lo gì nữa". Dứt lời, Rùa Vàng trở về biển nhanh chóng sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy. Tôi gọi nỏ là "Linh quang Kim Quy thần cơ". Chẳng bao lâu sau, như sự lo lắng của tôi, nước có giặc tràn vào. Triệu Đà đem quân đến giao chiến, hòng thâu tóm thành. Tôi bèn lấy nỏ thần ra bắn, trăm phát trăm trúng, quân Đà thua thảm, bèn rút quân về Trâu Sơn đắp lũy không dám đối chiến, viết thư xin cầu sống dân chúng từ đó được yên ổn, xã tắc bình an. Tôi vốn có một cô con gái xinh đẹp, nết na tên là Mị Châu đương độ tuổi kén chồng. Lúc ấy, Đà sang cầu hôn. Tôi vô tình đồng ý mà không mảy may nghĩ tới mối thù xưa. Tôi cứ nghĩ cuộc hôn nhân này là môn đăng hộ đối, là vừa lứa xứng đôi, các con sẽ trăm năm hạnh phúc. Nhưng tôi đã lầm. Đây chỉ là một kế của Đà hòng cướp đoạt nỏ thần của tôi. Vậy mà khi ấy, tôi chẳng hề để ý. Mị Châu là đứa con gái ngoan ngoãn, là một người vợ hiền hết mực thương chồng. Trong một lần Mị Châu cho Trọng Thủy xem trộm nỏ thần, Trọng Thủy đã tráo nỏ thần đem về phương Bắc, lấy lí do thăm cha. Lúc ấy, tôi vẫn không hề biết rằng nỏ thần đã bị cô con gái thân yêu của mình vô ý trao tay bao lâu sau ngày Trọng Thủy về phương Bắc, Triệu Đà đem quân sang đánh. Tôi cũng không ngờ Đà vẫn còn nặng thù với việc thua ngày xưa. Nhưng tôi đã có nỏ thần trong tay, tôi ung dung, thản nhiên ngồi đánh cờ. Tôi mặc kệ Đà đánh chiếm ra sao. Chỉ khi Đà cho quân tiến sát vào, tôi mới đem nỏ thần ra đánh. Nhưng... nỏ thần đâu? Kia chỉ là cái nỏ rất bình thường. Tôi hoảng loạn khi nỏ thần bị đánh cắp. Tôi cùng con gái bỏ chạy về phía phương Nam. Tôi và Mị Châu cứ chạy, Mị Châu cứ lặng lẽ rải lông ngỗng trên đường mà tôi không hề biết. Chạy đến bờ biển, đường cùng, tôi bèn kêu lớn "Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu". Rùa Vàng khi ấy mới hiện lên và nói "Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó". Tôi quay qua Mị Châu, không khỏi sững sờ khi con gái mình chính là giặc, chính là kẻ đã đưa mình đến bước đường cùng. Chẳng nghĩ ngợi, đắn đo, tôi tuốt kiếm chém Mị Châu, máu chảy lênh láng. Tôi cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn tôi xuống đang sống dưới hải cung, nhưng không khỏi thương tiếc về đất nước mình. Tôi đã lầm lỡ, đã quá tự tin, đã không hề cảnh giác với kẻ thù, để khi mọi chuyện lỡ rồi cũng không còn đường rút. Hi vọng mọi người đừng ai sơ ý giống tôi, cũng đừng ai mất cảng giác như tôi để chuyện xấu không xảy các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của có thể tải về tập tin thích hợp cho bạn tại các liên kết dưới đây.
Văn mẫu lớp 10Kể lại truyện “An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ” theo lời kể của nhân vật Trọng Thuỷ là tài liệu văn mẫu lớp 10 hay, giúp các em học sinh biết cách kể sáng tạo truyện Mị Châu - Trọng Thủy bằng lời tự thuật của An Dương Vương. Mời các em cùng tham khảo các bài văn mẫu nhập vai An Dương Vương kể lại câu chuyện dưới lại truyện “An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ” theo lời Trọng ThuỷBài làmTôi là Trọng Thuỷ, con trai vua Triệu Đà ở phương Bắc. Sau khi An Dương Vương, vua nước Âu Lạc xây xong Loa Thành được một thời gian thì cha tôi kéo quân sang đánh chiếm. Vì An Dương Vương có nỏ thần Kim Quy, bắn một phát chết hàng vạn người nên quân lính của cha tôi bại trận, bỏ chạy về Trâu Sơn, không dám đánh nhau nữa. Biết không thể thắng, cha tôi bèn cầu hoà, chờ dịp bao lâu, cha tôi xin An Dương Vương gả con gái yêu là Mị Châu cho con trai mình. Tưởng cha tôi thực tâm hoà hiếu, An Dương Vương vui lòng nhận lời và còn cho tôi ở rể trong Loa Thành. Trước khi sang Âu Lạc, cha tôi đã dặn dò rất kỹ và trao cho tôi nhiệm vụ phải do thám bằng được bí mật của nỏ đầu, để thuận lợi cho công việc, tôi phải vờ tỏ vẻ yêu mến Mị Châu, nhưng dần dần, trước nhan sắc tuyệt trần và tính tình hiền dịu của nàng, tôi đã say mê từ khi nào chẳng biết. Chúng tôi sống hoà hợp, hạnh phúc bên nhau. Tuy vậy, tôi vẫn không quên việc trọng đại mà cha tôi giao một đêm trăng đẹp, tôi dâng rượu quý, cố chuốc cho An Dương Vương uống thật say. Khi mọi người đã ngủ, tôi tỉ tê hỏi Mị Châu về chỗ cất giấu nỏ thần và ngỏ ý muốn được xem tận mắt. Nàng vui vẻ dẫn tôi đi và còn chỉ cho tôi biết nỏ thần thiêng là cái lẫy bằng vuốt Rùa vàng. Tôi ngầm làm một cái lẫy giả giống hệt, thay thế vào được lẫy thần, tôi viện cớ về thăm cha ít lâu. Lúc chia tay, tôi nói với Mị Châu "Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Nay ta trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hoà, Nam Bắc cách biệt, ta muốn tìm nàng, lấy gì làm dấu?". Mị Châu rơi lệ, ngậm ngùi đáp "Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh li biệt thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có chiếc áo gấm lông ngỗng, thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau."Tôi về nước dâng lẫy thần cho cha. Cha tôi mừng lắm, lập tức cất binh sang đánh chiếm Âu Lạc. Đoàn quân đông mấy chục vạn người ầm ầm tiến sát Loa Thành mà không thấy An Dương Vương chống trả. Lúc cha tôi dẫn đầu đạo quân nhằm cửa thành xông tới thì An Dương Vương mới sai mang nỏ thần ra bắn. Thấy nỏ không còn hiệu nghiệm, ông bèn đặt Mị Chây lên lưng ngựa rồi bỏ chạy về phương cùng một số binh lính cứ theo dấu lông ngỗng mà đuổi. Tới bờ biển thì không thấy bóng dáng An Dương Vương đâu cả, chỉ có xác Mị Châu nằm bên vũng máu, đầu lìa khỏi cổ. Đau đớn khôn cùng, tôi mang xác nàng về an táng ở Loa Thành. Ngày ngày, tôi phủ phục bên mộ nàng mà than khóc, thương tiếc khôn nguôi. Tôi tự trách và giận mình ghê gớm. Vì tôi lừa dối nàng mà nàng vô tình mắc tội tiếp tay kẻ thù, dẫn đến thảm hoạ nhà tan, nước mất. Tội lỗi của tôi là không thể tha thứ. Tôi chỉ có thể lấy cái chết để đền tội mà thôi. Bất chợt tôi nghĩ đến cái giếng trong Loa Thành, nơi tôi và nàng cách đây chưa lâu thường cùng nhau soi tài liệu liên quanSoạn bài lớp 10 Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng ThủySoạn văn 10 bài Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng ThủyVăn mẫu lớp 10 Phân tích Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng ThuỷHóa thân thành An Dương Vương kể lại Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng ThuỷTruyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ là một truyền thuyết quen thuộc mà hầu hết mọi người đều quen biết. Bài viết trên đây sẽ giúp các bạn tiếp cận câu chuyện trên từ một khía cạnh khác, theo lời của nhân vật Trọng đây, đã giới thiệu tới các bạn tài liệu văn mẫu lớp 10 Kể lại truyện “An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ” theo lời kể của nhân vật Trọng Thuỷ. Mời các bạn tham khảo thêm Soạn bài lớp 10, Soạn văn lớp 10 để học tốt môn Ngữ văn 10 đạt kết quả cao.
nhập vai mị châu kể lại chuyện an dương vương