Hoài Thanh và phương pháp phê bình ấn tượng. ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Trang chủ của Khoa Văn học - The homepage of the Faculty of Literature. 17 10 2022 Mon. Last update Wed, 12 Oct 2022 8pm. search TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH Phát biểu kết luận tại buổi làm việc với tập thể lãnh đạo VKSND tỉnh Bình Phước và các đơn vị trực thuộc, thay mặt đoàn kiểm tra, đồng chí Phó Viện trưởng Viện cấp cao 3 Nguyễn Văn Tùng nhấn mạnh, sau 6 tháng đầu năm 2022 Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Bình Phước Đến lượt người Đức được cho là đã phàn nàn riêng về sự đạo đức giả (hypocrisy) và chủ nghĩa ích kỷ của người Pháp. Quyết định hoãn các cuộc tham vấn truyền thống của chính phủ Pháp-Đức vào tuần tới được đưa ra trong bối cảnh ông Macron bị phản đối Phương Pháp Jakarta - Lịch Sử Các Hoạt Động Bí Mật Của CIA Thời Chiến Tranh Lạnh Ở Đông Nam Á Và Mỹ Latin - Vincent Bevins BÌNH CHỌN SÁCH HAY NHẤT 2020 CỦA KÊNH TRUYỀN HÌNH NPR, TẠP CHÍ FINANCIAL TIMES VÀ GQ Phương pháp Jakarta là một khảo cứu lịch sử chính trị, được viết như một phóng sự điều tra dài kỳ, về Phong cách học với nghiên cứu, phê bình văn học. Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy khi đánh giá về tình hình phê bình văn học theo phong cách học ở nước ta đã có lí khi cho rằng: “Phê bình phong cách một tác phẩm hoặc một nhà văn chỉ bằng một vài nhận xét thì đã có nhiều Tài liệu Các lý thuyết phê bình văn học nhằm cung cấp cho bạn đọc một tấm bản đồ của các lý thuyết văn học lớn trên thế giới từ đầu Thế Kỷ 20 đến nay, chủ yếu để giúp bạn đọc dễ theo dõi các bài viết về lý thuyết và phê bình văn học. Mời các bạn cùng bSqcFT. Thuật ngữ phân tâm học’ do Sigmund Freud đặt ra vào năm 1896. Thời gian đầu, đó chỉ thuần tuý là một khoa học và là một phương pháp trị bệnh, sau, ảnh hưởng lan rộng sang địa hạt văn học, trở thành một phương pháp phê bình. Phần tóm lược dưới đây chỉ nhằm cung cấp cho bạn đọc một tấm bản đồ’ của các lý thuyết văn học lớn trên thế giới từ đầu thế kỷ 20 đến nay, chủ yếu để giúp bạn đọc dễ theo dõi các bài viết về lý thuyết và phê bình văn học đăng tải trên Tiền Vệ. Khi đọc, xin bạn đọc lưu ý cho một điểm không có một lý thuyết nào có thể được tóm lược một cách trung thành và trung thực, do đó, tấm bản đồ’ này chỉ nên được sử dụng như một cơ sở để tham khảo, từ đó, đọc thêm, hơn là để đánh giá các lý thuyết ấy. Với mục đích giới thiệu’, tôi chỉ chọn một số những lý thuyết chính và có ảnh hưởng nhất mà thôi. ó là Hình thức luận của Nga Formalism Phê Bình Mới của Anh và Mỹ New Criticism Cấu trúc luận Structuralism Hậu cấu trúc luận / Giải cấu trúc Poststructuralism/Deconstruction Các lý thuyết Mác-xít Marxist Theories Thuyết người đọc Reader Theory Phân tâm học Psychoanalysis Nữ quyền luận Feminism Thuyết lệch pha Queer Theory Chủ nghĩa hậu thực dân Postcolonialism Chủ nghĩa hậu hiện đại Postmodernism Chủ nghĩa tân duy sử New Historicism và Chủ nghĩa duy vật văn hoá Cultural Materialism Về tài liệu tham khảo, tôi chỉ ghi những tác phẩm chính, mới và dễ tìm nhất, chủ yếu bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Nguyễn Hưng Quốc ___________________ PHÂN TÂM HỌC Thuật ngữ phân tâm học’ do Sigmund Freud đặt ra vào năm 1896. Thời gian đầu, đó chỉ thuần tuý là một khoa học và là một phương pháp trị bệnh, sau, ảnh hưởng lan rộng sang địa hạt văn học, trở thành một phương pháp phê bình. Với tư cách là một phương pháp phê bình, phân tâm học xem tác phẩm văn học như một thế giới huyễn tưởng trong đó, nhân vật có đời sống riêng, với những quy luật tâm lý riêng. Tất cả mọi chi tiết được mô tả trong thế giới huyễn tưởng ấy đều được xem là những biểu tượng phản ánh những ước muốn âm thầm cũng như những dồn nén trong vô thức của tác giả. Xin lưu ý, với các nhà phân tâm học, vô thức’ không phải là sự thiếu vắng ý thức mà là một cõi riêng, một phần riêng trong cấu trúc tâm thức của con người, nơi chứa đựng những xung lực có tính bản năng và những ước mơ không thể thực hiện được, thậm chí, không thể chấp nhận được trong một xã hội được xem là văn minh. Những xung lực và những ước mơ bị dồn nén này không ngừng tìm cách trồi lên vùng ý thức dưới nhiều hình thức nguỵ trang khác nhau và qua nhiều cách thức khác nhau, trong đó, những cách thức phổ biến nhất là nói tục, nói nhịu và đặc biệt, các giấc mơ. Các nhà phân tâm học xem giấc mơ như cửa ngõ chính dẫn vào thế giới vô thức. Các nhà phê bình theo khuynh hướng phân tâm học xem tác phẩm văn học y như một giấc mơ nếu giấc mơ là một sự hoàn thành trá hình những ước muốn bị dồn nén của con người, tác phẩm cũng chỉ là hình thức thăng hoa của các ẩn ức từ trong vô thức và từ thời thơ ấu. Hoạt động của giấc mơ – cũng như của tác phẩm văn học – có thể được tóm gọn vào hai quá trình chính, dồn nén’ và hoán vị’. Trong quá trình dồn nén’, vô số các ước mơ, các ẩn ức và các mặc cảm khác nhau sẽ được kết tập vào một hình thức biểu hiện nhất định, sau đó, hình thức biểu hiện này sẽ được nguỵ trang, tức được hoán chuyển sang một hình thức khác phù hợp với các quy ước đạo đức và văn hoá của xã hội. Hai quá trình dồn nén’ và hoán chuyển’ này tương tự hai cấu trúc ẩn dụ’ dồn nén ý nghĩa lại theo nguyên tắc tương đồng và hoán dụ’ hoán chuyển ý nghĩa này sang ý nghĩa khác theo nguyên tắc tương cận mà Roman Jakobson đã phát hiện như hai cái trục chính trong sinh hoạt ngôn ngữ nhân loại. Chính vì sự tương tự này, Jacques Lacan đã đi đến một kết luận nổi tiếng “vô thức cũng được cấu trúc như ngôn ngữ.” Với công thức này, Lacan trở thành một đại biểu của phân tâm học theo khuynh hướng cấu trúc luận. Tuy nhiên, sau đó, ông đã đi xa hơn về hướng hậu cấu trúc luận khi ông không dừng lại ở hai trục ẩn dụ và hoán dụ mà còn cho ngôn ngữ được hình thành từ những cái biểu đạt signifiers hơn là các ký hiệu signs với những ý nghĩa cố định. Ví dụ, nếu chúng ta nằm mơ thấy một con ngựa; con ngựa ấy sẽ không phải là một ký hiệu theo ý nghĩa mà Ferdinand de Saussure thường dùng, mà nó chỉ là một cái biểu đạt từ đó, chúng ta có thể diễn dịch ra nhiều cái được biểu đạt, tức nhiều ý nghĩa khác nhau. Vô thức, bởi vậy, với Lacan, là một chuỗi vận động liên tục của các cái biểu đạt, ở đó, những cái được biểu đạt thường bị đèn nén, không vươn lên tầm ý thức được. Bị tác động bởi vô thức, chúng ta sẽ không bao giờ nói được hoàn toàn đúng những gì chúng ta muốn nói mọi diễn ngôn đều ít nhiều mang tính nói nhịu, do đó, mơ hồ, hơn nữa, hàm hồ. Ý nghĩa luôn luôn là cái gì dở dang, lẫn lộn giữa những yếu tố có tính truyền thông và những yếu tố phi truyền thông, vừa sáng rõ vừa tăm tối, vừa ngỡ như có thể nắm bắt được lại vừa phấp phới bay ra xa. Quan niệm này dẫn dến một quan niệm khác về ngôn ngữ giống các nhà cấu trúc luận khác, Lacan tin ngôn ngữ là cái gì không hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát của cá nhân ngôn ngữ có trước chúng ta, luôn luôn có sẵn ở đâu đó để chờ đợi chúng ta. iều này có nghĩa là vô thức không phải được cấu trúc như ngôn ngữ mà còn là sản phẩm của ngôn ngữ. ây chính là một trong vài sự khác biệt lớn nhất giữa Lacan và Freud Trong khi Freud nhấn mạnh vào các yếu tố sinh lý, Lacan nhấn mạnh vào yếu tố ngôn ngữ với ông, không có bất cứ một chủ thể nào độc lập với ngôn ngữ. Trong khi Freud quan tâm một cách đặc biệt đến mối quan hệ giữa bản tính tự nhiên và văn hoá, ở đó, theo ông, ưu thế sẽ thuộc về văn hoá, Lacan quan niệm cái gọi là bản tính bẩm sinh là cái gì không thể nhận diện được trọn vẹn vì nó luôn luôn bị ảnh hưởng bởi cái ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng với ông, con người vừa không bao giờ có thể được định nghĩa trọn vẹn lại vừa không thể trốn thoát được các định nghĩa mỗi người luôn luôn ở trong quá trình tự tìm chính mình. Sự khác biệt này lại dẫn đến một khác biệt khác nữa Trong khi Freud hay nói đến bản năng và những xung lực từ vô thức, Lacan lại hay nói đến những ước mơ với ông, ước mơ là cái gì có tính bản thể luận, một cuộc đấu tranh nhằm vươn lên cái toàn thể hơn là gắn liền với những xung lực tính dục. Mọi ước mơ đều gắn liền với sự thiếu hụt. Ngay chính ngôn ngữ con người cũng hoạt động trên sự thiếu hụt ấy điều kiện để từ ngữ có ý nghĩa là sự vắng mặt của cái được biểu đạt và sự loại trừ vô số những cái biểu đạt khác. Lý thuyết phân tâm học thay đổi, phê bình dưới nhãn quan phân tâm học cũng thay đổi theo. Thoạt đầu, các nhà phê bình phân tâm học cổ điển’ xem tác phẩm như một biểu hiện hoặc một phản ánh vô thức, do đó, cho công việc chính của phê bình là phân tích văn bản để nhận diện những gì giấu kín trong vô thức của tác giả. Sau, phần lớn xem tác phẩm như một công trình sản xuất, một thứ production, hơn là product, ở đó, nhiệm vụ chính của nhà phê bình không phải là đọc’ cái văn bản có sẵn mà là cố gắng khám phá quá trình hình thành của văn bản, không phải tìm xem văn bản nói cái gì mà là nhằm phát hiện văn bản ấy được tạo dựng như thế nào. Trong công việc khám phá và phát hiện ấy, nhà phê bình cần chú ý đến những triệu chứng’ tương đối bất bình thường như những sự bóp méo, sự vắng mặt hay sự lặp lại… của một số yếu tố nào đó trong văn bản. Trước, người ta chỉ tập trung truy nguyên diện mạo vào tác giả; sau, từ thập niên 1950, một số nhà phân tâm học chuyển hướng phân tích từ tác giả sang độc giả. Theo Norman Holland, nguồi suối của mọi niềm vui do văn học mang lại là, qua việc đọc tác phẩm – một hế thống được mã hoá, chúng ta có thể hoán chuyển những ước muốn từ vô thức thành những ý nghĩa văn hoá mà mọi người có thể chấp nhận được. ọc, như vậy, với Holland, trước hết và trên hết, là một hành động tái tạo bản sắc của chính độc giả. Trong công việc tìm hiểu tác giả, trước, người ta chỉ tập trung vào vô thức cá nhân; sau, dưới ảnh hưởng của Carl Jung, người ta còn quan tâm đến cả vô thức tập thể, từ đó, dẫn đến lý thuyết phê bình cổ mẫu archetypal criticism, như một bước phát triển lệch hướng của Phê Bình Mới, với đại biểu chính là Northrop Frye. Bên cạnh đó, Harold Bloom dùng lý thuyết về mặc cảm Oedipus của Freud để hình dung lịch sử văn học như một cuộc đấu tranh’ liên lỉ giữa các thế hệ cầm bút người nào cũng lo lắng và nung nấu khát vọng thoát khỏi cái bóng của một bậc tiền bối hay đàn anh nào đó mà mình ái mộ. Theo Bloom, bất cứ bài thơ nào cũng có thể được đọc như một nỗ lực thoát ra khỏi ảnh hưởng của những bài thơ được sáng tác trước đó; nói cách khác, mọi bài thơ đều được viết lại từ những bài thơ khác; ý nghĩa của một bài thơ, do đó, là một bài thơ khác. Phân tâm học cũng có những ảnh hưởng nhất định lên một số những lý thuyết hậu hiện đại hàng đầu thế giới như Jacques Derrida, Gilles Deleuze, Félix Guattari, Julia Kristeva và nhiều nhà nữ quyền luận khác. Tài liệu tham khảo thêm Psychoanalytic Criticism, a Reappraisal của Elizabeth Wright 1998, Cambridge Polity Press; Literature, Science, Psychoanalysis, 1830-1970 Essays in Honour of Gillian Beer do Helen Small và Trudi Tate biên tập 2003, Oxford Oxford University Press; Literature and Analysis Intertextual Readings của Ruth Parkin-Gounelas 2001, New York Palgrave. Nguồn 1. Đuổi bắt thế giớiCó thể nói, từ những thập niên đầu thề kỷ XX, xã hội Việt Nam mới thực sự tham dự vào cuộc hành trình rời quỹ đạo khu vực để gia nhập quỹ đạo thế giới. Hành trình hiện đại hoánày, trước 1945, hầu như trùng khít với phương Tây hóa. Bởi, thế giới hiện đại trong mắt người Việt Nam bấy giờ chỉ là phương Tây. Còn sau 1975, chúng ta đã có những nẻo khác, như Liên Xô, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước Đông Nam Á, nhưng, theo tôi, con đường chính vẫn là phương Tây, còn các nước kia chỉ nên coi là những đồng hành sau hội Việt Nam đã và đang hiện đại hóa, nên văn học Việt Nam không thể dẫm chân mãi trong vũng cổ truyền mà không hiện đại hóa. Và, thực tế, hơn một thế kỷ qua, nó cũng đã và đang hiện đại hóa. Từ một văn học trung đại mang đậm chất Nho giáo coi văn học trước hết là con thuyền và cỗ xe chở đạo đến văn học hiện đại coi văn học nơi để khám phá cái đẹp, nơi mang lại những cảm xúc thẩm mỹ. Từ một văn học coi cái đẹp chỉ là cất thần, nên văn chương chuyên chú vào tả thần,đến một văn học đã mở rộng nội hàm cái đẹp sang cả cái thực, nên từ đó mới có thêm dòng văn chương tả một văn học văn thơ phụ lụcphần nhiều vay mượn từ khuôn mẫu Trung Hoa đến mộtvăn học thế giới có những thể loại, như Thơ Mới, tiểu thuyết hiện đại, kịch nói và cả phê bình văn học nữa...Nói "cả phê bình văn học nữa", là tôi muốn ngụ rằng phê bình văn học ở Việt Nam xét như một hoạt động chuyên ngành là một thể loại trước đây chưa từng có. Nó hoàn toàn là con đẻ của sự hiện đại hóa văn học thế kỷ XX. Trong tiến trình hiện đại hóa, phê bình văn học Việt Nam đã trưởng thành băng việc tiếp thu, tự giác hoặc không tự giác, cái tư tưởng phê bình của văn học phương Tây được kết tinh trong lý thuyết và được cụ thể hóa trong phương điểm văn học trung đại Việt Nam hầu như chưa có phương pháp, tuy nhiên nếu có gắng gạn lại để khái quát thì có thể gọi đó là phương pháp cổ điểncó tính chất chủ quanvà giáo chính phương pháp này lại hiện hình rõ rệt hơn ở giai đoạn hình thành của phê bình văn học Việt Nam với nhưng cây bút như Phạm Quỳnh, PhanKhôi...trên báo chí. Thậm chí phương pháp cổ điển vẫn còn ảnh hưởng đến cả Thiếu Sơn, nhà phê bình văn học chuyên nghiệp đầu tiên của lối phê bình phương Tây hiện đại với tác phẩm Phê bìnhvà Cảo luận1933, đặc biệt là tính chất giáo điều. Phương pháp cổ điển của lối phê điểm trung đại đặc biệt là tính chất chủ quan còn ảnh hưởng lớn đến phương pháp ấn tượng mà đại diện đầu tiên và duy nhất của nó là Hoài Thanh với Thi nhân Việt Nam 1942.Trở lại với cuốn sách đầu tiên của phê bình văn học Việt Nam, thiên Phêbình và Cảo luận,của Thiếu phẩm này đã đặt nền móng cho lối tiếp cận khoa học khách quan hoàn toàn mới mẻ được thể hiện ởnhiều phương pháp khác nhau. Trước hết phải kể đến phương pháp tiểu sử do Trần Thanh Mai khởi xướng và đại diện với công trình HànMặcTử 1941.Sau đó là một nhân vật quyết liệt đổi mới khác, kiên quyết kéo phê bình văn học đi theo con đường khoa học khách quan là Trương Tửu. Một mặt, với Nguyễn Du và Truyện Kiều 1942, ông áp dụng phương pháp văn hóa lịch sử của và một vài thủ pháp phân tâm của mặt khác với Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ1945, ông áp dụng phương pháp macxít,một nhánh tả của xã hội học, được khởi xướng từ những năm 30 với Hải 1945, phương pháp xãhội học macxít toàn thắng. Và, trong một thời gian dài, nó trở thành phương pháp độc tôn. Các phương pháp được hình thành và đã có những thành công lớn trước 1945 như phương pháp ấn tượng, tiểu sử, văn hóa, lịch sử... không còn tiếp tục phát triển nữa mà vỡ ra thành những yếu tố gia nhập vào phương pháp mácxít. Phưong pháp này, một mặtđã mang lại nhiều thành công cho phê bình văn học Việt Nam, mặt khác, do tự làm nghèo mình đi bởi sự độc tôn, nên vấp phải một số vấn đề nghệ thuật nan giải, như phản ánh luận, nội dung và hình thức... Những phương thuốc bốc cho nó như nhấn mạnh đặc trưng nghệ thuật của sự phản ánh, đảo lại trật tự các chức năng, đưa ra lý thuyết "phản nghiền"...đều khôngmang lại nhiều kết quả, bởi lẽ đây chỉ là những sửa chữa bộ phận trong một ngôi nhà tổng thể. Phê bình văn học Việt Nam, để thoát khỏi những vấn nạn đó, cần phải được bổ sung thêm những phương pháp khác cập thế giới 1986, đổi mới và mở cửa, trước hết, đã “tháo khoán" và khuyến khích những lối tiếp cận từ ngôn ngữ học cấu trúc của Đó là phương pháp phong cách học của Phan Ngọc với Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều 1985, phương pháp thi pháp học của Trần Đình Sử trong Thi pháp thơ Tố Hữu… Đồng thời, những cấm kỵ về Freud và phương pháp phân tâm học cũng được dỡ bỏ. Bởi thế, bước đầu đã xuất hiện những công trình đi theo hướng này của Đỗ LaiThúy như Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm 1997 và Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực 1999.Như vậy, phê bình văn học Việt Nam đã tiếp thu được nhiều phương pháp của thế giới. Nhưng, điều quan trọng hơn là trong một thếé kỷ qua nó đã đi lại, dù không tự giác, đúng cái diễn trình của tư tưởng phê bình văn học thế giới đó là hành trình Tácgiả -> tác phẩm-> độcgiả. Chính ở điều này cho ta thấy một cái gì đó như là quy luật dù là hậu nghiệm Các văn học dân tộc dù xa cách nhau đến đâu về không gian và thời gian đều có thể tạo thành bản sắc thì sớm muộn gì cũng phải đi trên một con đường như nhau. Khác là khác ở cách chuyến tàu tốc hànhĐể bắt kịp thế giới, phê bình văn học Việt Nam phải lên chuyến tàu nhanh. Tốc hành, người phải có tốc độ cao, còn bỏ qua nhiều điểm đỗ và rút ngăn thời gian dừng chân ở một cuối chặng đường. Bởi vậy, các phương pháp của phê bình văn học Việt Nam xuất hiện gối tiếp nhau chứ không hẳn nối tiếp nhau như ở phương thực, ở phương Tây, phê bình văn học vận hành theo kiểu con lắc. Phương pháp tiểu sử học phát triển hết mức thì ngoài những ưu điểm ra còn bộc lộ cả những khiếm khuyết và để khắc phục chúng thì phương pháp văn hóa lịch sử ra đời và lại phát triển đến hết mức để rồi lại bộc lộkhiếm khuyết. Và đề khắc phục những khiếm khuyết thì phương pháp lịch sử tinh thần nảy sinh... Cứ như vậy, phương pháp này làm tiền đề cho sự ra đời và phát triển của phương pháp kia, nối đuôi nhau để đưa phê bình văn học tiến lên phía trước. Và mỗi một phương pháp đều được triển khai trọn vẹn, hết bình văn học Việt Nam,ngược lại, do phải dừng đến cây gậy rút đường, nên phương pháp này xuất hiện, chưa trải hết mình thì đã có một phương pháp khác xuất hiện, chồng lên nó và cả hai díu nhau đi như những con sóng gối đầu để đến bờ. Bởi thế, có những khoảng thời gian phê bình văn học Việt Nam cùng xuất hiện và cùng tồn tại hoặc được sau chút xíu không đáng kể nhiều phương pháp phê bình. Ví như, chỉ từ 1932 đến 1945 đã lần lượt xuất hiện các phương pháp chỉ xin kể những cái rõ nét hơn cả, như phê bình phân tâm học với HồXuân Hương thân thể và văn tài 1936của Nguyễn Văn Hanh, phê bình ấn tượng với Thi nhân Việt Nam 1942 của Hoài Thanh, phê bình tiểu sử với Hàn mặc Tử1941 của Trần Thanh Mại, phê bình văn hóa - lịch sử với Nguyễn Du và Truyện Kiều 1942của Trương Tửu, phê bình mác xít với Hải Triều, với Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ của Trương Tửu. Hoặc từ 1985 - 2000 phê bình phong cách học với Tìm hiểu phong cách của Nguyễn Du Truyện Kiều1985 của Phan Ngọc, phê bình thi pháp học với Thi pháp thơ Tố Hữu1987 của Trần Đình Sử, phê bình phân tâm học với Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực 1999 của ĐỗLai Thúy...Do tình trạng nước rút như vậy, nên các phương pháp phê bình văn học Việt Nam không thể không có sự đơn giản đã biết, mỗi một phương pháp phê bình ra đời bao giờ cũng có những cơ sở lý thuyết của nó. Xa thì gần với những tư tưởng triết học nào đó, gần thì gắn với nhưng quan niệm mới về mỹ học, về tác phẩm văn học... Bởi vậy, hiểu được cơ sở này thì mới hiểu sâu được phương pháp để sử dụng nó một cách linh hoạt và sáng tạo. Các nhà phê bình Việt Nam, khi vận dụng một phương pháp nào đó, ít có những trình bày lý thuyết. Họ chỉ đưa ra một vài thuyết minh, nhận xét nặng cảm tính về công việc mình làm. Đặc biệt là các phê bình gia trước 1945. Có thể, trong hoàn cảnh thông thường ngoại ngữ bấy giờ, độc giả không xa lạ với các phương pháp của Sainte-bcuve, Brunetière, Lanson... thậm chí họ còn được học trong nhà trường, nên phần giới thiệu lý thuyết là thừa, cốt yếu là vận dụng thế nào. Bởi thế, không ít người thấy những Thiếu Sơn, Vũ Ngọc Phan, Trần Thanh Mại, Hoài Thanh không nói gì, nên cứ tưởng rằng họ là những hiện tượng thuần túy Việt Nam, không có dây mỡ rễ má gì với ngoại nhân. Chỉ có Trương Tửu là ngoại lệ. Và sau 1945, một số ít khác như Phan Ngọc, Trần Đình Sử cũng là ngoại lệ. Có lẽ, những phương pháp họ áp dụng đã vượt ra ngoài những tri thức thông thường đương thời của số không có trình bày lý thuyết dễ dẫn đến một ngộ nhận cái phương pháp cụ thể mà các nhà phê bình Việt Nam dùng đó là toàn bộ phương như thi pháp học đâu chỉ có như thi pháp học của Trần Đình Sử. Đấy chỉ là một nguồn từ NgaXôViết, thậm chí chỉ từ một vài nhà nào đó trong cái nguồn này. Bạn đọc cũng nên biết có những nguồn khác của phương Tây. Hoặc phương pháp xã hội học chẳng hạn. Ngoài xã hội học mácxít ra, còn có xã hội học cấu trúc của thậm chí trong xã hội học mác xít còn có mácxít của Lukacs,mácxít phương Tây... Nếu hiểu biết kỹ hơn về các phân nhánh này thì độc giả dễ có sự đánh giá đúng đắn, nhất là đối với sự phê bình của phê cùng, sự đơn giản hóa còn thể hiện ở chỗ khi vận dụng một phương pháp nhà phê bình dễ lược quy vào một vài công thức nào đó. Ví như, khi vận dụng phân tâm học Freud vào nghiên cứu Hò Xuân Hương, NguyênVăn Hanh chỉ sử dụng công thức dồn nén -> ẩn ức -> thăng hoa. Công thức này về sau đã trở thành chiếc chìa khóa vạn năng dường như mở được vào một tác phẩm có vấn đề tình dục. Tệ hơn, khi đã trở thành khuôn mâu rồi thì người ta lạiláy tác phẩm đề chứng minh công thức. Rồi các công thức khác thi nhau ra đời như phong cáchlà sự chọn lựa,rồi thi pháp học là quan niệmvề con người, không gian nghệ thuật, thờigian nghệ thuật...Thế là sự vận dụng phương pháp từ những thế hệ F2, F3 trở đi đã thành cằn cỗi và sai pháp mới dẫn đến kết quả cũ khiến người ta dễ hoài nghi cái mới, thật là lợi bát cập sự đồng tồn hoặc gối tiếp nhau của các phương pháp nói trên dẫn đến hiện tượng xâm nhập lẫn nhau của các phương pháp. Từ đó, phê bình văn học Việt Nam ít có những phương pháp thuần túy, chuyên nhất mà bao giờ cũng có sự pha tạp.. Ví như, phương pháp ấn tượng của HoàiThanh thì cũng không hẳn là ấn tượng chủ nghĩa như của nước ngoài. Nhà văn hiện đạicủa Vũ Ngọc Phan thì là sự tranh chấp giữa phê bình khoa học và phê bình ấn tương, giảng giải, nhận xét vụn vặt. Đến người cực đoan như Trương Tửu, Phan Ngọc mà trong haitác phẩm viết về TruyệnKiều của hai ông cũng còn thấy sự không thuần nhất về phương pháp. Trương Tửu thì vừa văn hóa lịch sử vừa phân tâm học, còn Phan Ngọc thì những yếu tố xã hội học cứ đâm chen vào phong cách học. Có thể, hợp lực của phương pháp xã hội học thời kỳ thanh xuân và áp lực của nó thời kỳ độc tôn đã gây ra hiện tượng này. Nhưng cũng có thể do con người trồng trọt trong mới người Việt Nam chúng ta có bản chất đa canh chứ không phải chuyên canh. Bởi thế, phê bình văn học Việt Nam không có những người chuyên trị một phương pháp. Thường thì dễ chuyển từ phương pháp này sang phương pháp khác sau một làn thu hoạch hóa lược của kẻ đi chậmMặc dù đã truợt đi rất nhanh để đuổi kịp thế giới, nhưng phê bình văn học Việt Nam văn còn tụt hậu một khoảng cách đó là cái phương pháp tiếp cận tác phẩm từ độc giả, như giải cấu trúc, giải minh họcvà mỹ học tiếp Nam chưa có nhà phê bình nào sẵn sàng thu lấp khoảng cách này. Là người sẽ còn đi sau thế giới một thời gian dài dài nữa, nên chúng ta cần có một chiến lược củakẻ đi hết, hẳn là cái phương châm cổ truyền chậm mà nhiên, nếu nhanh mà chắc thì còn nói làm gì. Erằng đã chậm mà lại còn không thu các phương pháp của nước ngoài là chúng ta tiếp thu cái ngọn, đánh những quả đã chín sẵn, mà để có những quả phương pháp ấy người ta phải đi từ triết học, mỹ học, lý thuyết văn học, phương pháp phê bình văn học. Nếu chúng ta chỉ hái quả, không biết vun gốc thì sự vận dụng của chúng ta chỉ là những áp dụng máy móc, đơn thuần là thao tác kỹ thuật, không thể có sự sáng tạo. Bởi vậy, nhà phê bình cần phải làm một hành trình ngược lại phương pháp phê bình văn học -> lý thuyết văn học -> mỹ học -> triết học để thay đổi cái nhìn nghệ thuậtvà cái nhìn thế giớicủa mình. Tôi gọi đó là cuộc hành hương về nguồn. Và sự thành công của một nhà phê bình phụ thuộc vào sức đi xa của anh ta trong chuyến hành hương đó nên biết nhiều dùng có phương pháp phê bình nào là toàn bích. Mỗi công cụ đều có sở trường và sở những hạn chế của phương pháp này là điều kiện nảy sinh và tòn tại của phương pháp khác. Đấy là lý do cho sự chung sống hòa bình của nhiều phương pháp phê bình mà không nhất thiết phải loại trừ nhau và càng không thể chỉ có một phương pháp độc tôn. Và đây cũng là lý do để nhà phê bình nên biết nhiều phương pháp không chỉ để dễ tìm ra tiếng nói chung mà để cho chính mình khi sử dụng một phương pháp nào đó. Nếu chuyên canh được một phương pháp thì tốt. Bằng không, khi tiếp xúc với tác phẩm thì tùy theo tính chất của tác phẩm mà chọn lấy một phương pháp thích hợp làm chủđạo, còn lấy một số các phương pháp còn lại làm bổ cùng, đấy cũng là lý do để nhà phê bình có thể tiếp cận tác phẩm theo các hệ thống văn học Tác giả -> tác phẩm -> người đọc. Cấu trúc luận, vốn thịnh hành trong thập niên 1960 và nửa đầu thập niên 1970, được xem là một cuộc cách mạng, thậm chí, là cuộc cách mạng lớn nhất trong lãnh vực nghiên cứu văn học cũng như các ngành nhân văn và khoa học xã hội nói chung trong thế kỷ 20. CÁC LÝ THUYẾT PHÊ BÌNH VĂN HỌC 3 Cấu trúc luận Nguyễn Hưng Quốc Cấu trúc luận, vốn thịnh hành trong thập niên 1960 và nửa đầu thập niên 1970, được xem là một cuộc cách mạng, thậm chí, là cuộc cách mạng lớn nhất trong lãnh vực nghiên cứu văn học cũng như các ngành nhân văn và khoa học xã hội nói chung trong thế kỷ 20. Trên căn bản, cấu trúc luận tiếp tục con đường Hình thức luận và Phê Bình Mới đã khai mở, chẳng hạn, tham vọng biến nghiên cứu văn học thành một khoa học trong đó đối tượng phân tích chính là văn bản và chỉ là văn bản mà thôi. Tuy nhiên, từ điểm chung ban đầu ấy, cấu trúc luận đã đi rất xa, hình thành hẳn một hệ thống lý thuyết và phương pháp luận hoàn chỉnh không những chỉ có thể được ứng dụng trong lãnh vực văn học mà còn ở vô số các lãnh vực khác nữa. Cấu trúc luận, trong lãnh vực văn học, được xây dựng trên ba nền tảng chính Thứ nhất, lý thuyết ngôn ngữ của Ferdinand de Saussure 1857-1913, người đã chủ trương, một, về phương diện phương pháp luận, chỉ quan tâm đến khía cạnh đồng đại mà loại bỏ khía cạnh lịch đại của ngôn ngữ; hai, ở khía cạnh đồng đại, chỉ tập trung vào tính hệ thống với những quy luật và quy ước chung nhất và loại bỏ những biểu hiện của cái hệ thống ấy, ví dụ, những lời nói cụ thể hàng ngày; và ba, với tư cách là một hệ thống, ngôn ngữ thực chất là những ký hiệu; mỗi ký hiệu là một kết hợp gồm hai mặt, cái biểu đạt signifier và cái được biểu đạt signified, gắn chặt với nhau bằng một thứ quan hệ rất tương đối và hàm hồ, ở đó, ý nghĩa chỉ được hình thành từ những sự khác biệt giữa các ký hiệu. Thứ hai, các phát hiện của Nhóm ngôn ngữ học Prague trong đó nổi bật nhất là Roman Jakobson, người đã đề xuất cách định nghĩa thơ dựa trên các chức năng giao tiếp theo ông, ngôn ngữ, trong giao tiếp, mang nhiều chức năng khác nhau, nhưng khi chức năng thi ca chiếm vai trò chủ đạo, nghĩa là khi sự giao tiếp chỉ tập trung vào bản thân thông điệp, vào ngôn ngữ tạo thành thông điệp, lúc ấy người ta có thơ. Thứ ba, các công trình nghiên cứu nhân chủng học về huyền thoại, hệ thống thân tộc, cách nấu nướng và cách tư duy trong các xã hội sơ khai của Claude Levi-Strauss, người đã làm sáng tỏ cái điều Roland Barthes khái quát thành luận điểm “văn hoá, trong mọi khía cạnh, là một ngôn ngữ.”[1] Trong lời dẫn nhập bài luận văn phân tích bài thơ “Những con mèo” của Baudelaire viết chung với Jakobson, Levi-Strauss tuyên bố “Trong các tác phẩm thơ ca, nhà ngôn ngữ học nhận ra các cấu trúc rất giống với các cấu trúc trong các huyền thoại mà các nhà dân tộc học đã từng bắt gặp trong quá trình phân tích của họ.”[2] ược xây dựng trên nhiều nền tảng như vậy, khác với Hình thức luận và Phê Bình Mới, cấu trúc luận có tính chất liên ngành rõ rệt. Với các nhà cấu trúc luận, nghiên cứu văn học chỉ là một lãnh vực của hệ thống ký hiệu học rộng lớn và đa dạng. Bởi vậy, cấu trúc luận không phải chỉ là một phương pháp luận, một lý thuyết hay một trường phái mà còn là cả một trào lưu. iểm chung của cả trào lưu cấu trúc luận là ở đâu người ta cũng theo đuổi một mục tiêu giống nhau cấu trúc. uổi theo cấu trúc, các nhà cấu trúc luận không quan tâm đến ý nghĩa của từng tác phẩm cụ thể như các nhà Phê Bình Mới. Họ cũng không quan tâm đến cái gọi là tính văn chương như các nhà Hình thức luận. Với các nhà cấu trúc luận, mục tiêu cao nhất của nghiên cứu văn học là phát hiện ra ngữ pháp’ của văn chương, tức những quy ước làm cho một hình thức diễn ngôn nào đó trở thành văn chương. Công cuộc tìm kiếm ngữ pháp’ văn chương ấy, ở Roland Barthes, dẫn đến lý thuyết về các mã’ codes chi phối cách vận hành’ của tiểu thuyết; ở Tzvetan Todorov và Gérard Genette, sự phát triển của thi pháp học, tự sự học narratology và lý thuyết về các thể loại; ở Claude Levi-Strauss, lý thuyết về huyền thoại và văn hoá dân gian nói chung; ở Vladimir Propp và đặc biệt, ở A. J. Greimas, lý thuyết về truyện dân gian; ở Roman Jakobson, lý thuyết về sự chuyển hoá từ trục lựa chọn sang trục kết hợp và từ phong cách ẩn dụ sang phong cách hoán dụ trong thơ; ở Jonathan Culler, lý thuyết về khả lực competence và tính khả thức intelligibility của văn học, tức những điều kiện và quy luật chi phối cách thức diễn dịch để chúng ta có thể hiểu và cảm các tác phẩm văn học, bằng cách đó, nới rộng phạm vi của khái niệm cấu trúc nó không chỉ nằm trong tác phẩm mà còn nằm cả trong động tác diễn dịch của người đọc. Xem cấu trúc và ngữ pháp’ văn chương là đối tượng khảo sát và phân tích chính, cấu trúc luận vượt hẳn các lý thuyết văn học trước nó về tính khoa học’ với những nguyên tắc mang tính phương pháp luận cụ thể, một hệ thống khái niệm rõ ràng, một khả năng ứng dụng gần như vô giới hạn. Tuy nhiên, khi chọn trọng tâm nghiên cứu như vậy, cấu trúc luận cũng đồng thời bỏ qua các tác phẩm và tác giả cụ thể. Hậu quả là, một, do mọi người mải mê đi tìm những quy luật và quy ước phổ quát, lãnh vực phê bình thực hành tương đối yếu; hai, khi lược quy mọi hình thức diễn ngôn vào một hệ thống ký hiệu, ranh giới giữa tính văn chương và tính phi văn chương bị xoá nhoà, một mẩu quảng cáo, do đó, cũng có ý nghĩa tương đương với một kiệt tác; ba, bị hạn chế trong cách nhìn đồng đại, dưới mắt các nhà cấu trúc luận, mọi cái viết đều không có khởi nguồn, do đó, họ không đặt ra vấn đề đánh giá về tính độc sáng của bất cứ một văn bản nào với họ, mọi văn bản đều hình thành từ những gì đã được viết trước đó cả rồi. Nói cách khác, cấu trúc luận có những đóng góp giới hạn trong cả lãnh vực phê bình lẫn lãnh vực văn học sử. Phần còn lại, nơi cấu trúc luận có nhiều thành tựu nhất, là lý thuyết, nhưng lý thuyết của cấu trúc luận chủ yếu là lý thuyết diễn dịch hơn là lý thuyết mỹ học, do đó, tuy cấu trúc luận được xem như một trào lưu rộng lớn nhưng nó lại thiếu những chiều sâu triết học cần thiết để có thể thúc đẩy quá trình vận động của văn học. Nói cách khác nữa, khối lượng kiến thức đồ sộ mà các nhà cấu trúc luận tích luỹ được trong lãnh vực nghiên cứu văn học suốt hơn một thập niên hầu như chỉ giới hạn trong việc giúp người đọc hiểu sâu sắc những điều kiện hình thành văn chương hơn là chính bản thân văn chương. Tài liệu tham khảo thêm Structuralist Poetics Structuralism, Linguistics, and the Study of Literature của Jonathan Culler 1975, Ithaca Cornell University Press; Writing Degree Zero của Roland Barthes 1967, A. Lavers và C. Smith dịch sang tiếng Anh, London Jonathan Cape, bản dịch tiếng Việt của Nguyên Ngọc phổ biến trên website Introduction to Poetics của Tzvetan Todorov 1981, Richard Howard dịch sang tiếng Anh, Brighton Harvester Press; Structuralism in Literature, an Introduction của Robert Scholes 1974, New Haven Yale University Press. Bằng tiếng Việt, có Chủ nghĩa cấu trúc và văn học do Trịnh Bá Dĩnh giới thiệu và dịch 2002, nxb Văn Học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. Nguồn Phê bình văn học với tư cách là một bộ môn của khoa học văn học xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ XIX ở châu Âu đến nay đã trải qua nhiều chặng đường. Người ta có thể tùy theo mục tiêu nghiên cứu của mình mà trình bày diễn trình này theo những cách thức khác nhau. Đỗ Lai Thúy 5 Phê bình văn học với tư cách là một bộ môn của khoa học văn học xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ XIX ở châu Âu đến nay đã trải qua nhiều chặng đường. Người ta có thể tùy theo mục tiêu nghiên cứu của mình mà trình bày diễn trình này theo những cách thức khác nhau. Trước đây, trong bài viết Hành trình tư tưởng văn học phương Tây[16], tôi đã trình bày sự vận động của nó theo sơ đồ con lắc một xu hướng hoặc một trường phái nào đó của phê bình văn học chuyển động hết mình về phía A thì ngoài những ưu điểm nó cũng bộc lộ những nhược điểm. Và để khắc phục những nhược điểm này, nó lại chuyển động hết mình về phía B, phía đối lập. Ở phía B, ngoài những ưu điểm, nó lại bộc lộ những nhược điểm khác. Và để khắc phục những nhược điểm mới này, nó lại lao mình về phía A... Và cứ mỗi lần tìm cách khắc phục nhược điểm như thế, phê bình văn học lại tiến lên phía trước, không phải theo đường thẳng mà theo hình chữ chi. Ở công trình này, tôi trình bày theo một sơ đồ khác để, một phần, phù hợp với thực tiễn của tư tưởng phê bình văn học châu Âu từ thế kỷ XIX đến nay, phần khác, nhằm trả lời cho câu hỏi khẩn thiết của phê bình văn học Việt Nam trong thế kỷ qua, đặc biệt là của hiện trạng của phê bình hiện nay đó là việc đi tìm một phương pháp phê bình văn học tốt nhất, như là một thứ “động cơ vĩnh cửu”. Ở đây, xin mở ngoặc, tôi lấy thực tiễn của phê bình văn học châu Âu làm khung đối sánh không phải vì theo Âu tâm luận, mà vì phê bình văn học châu Âu phát triển đầy đủ và điển hình nhất và, do đó, có tính thế giới nhất. Hơn nữa, sự đi trước của châu Âu cho ta một khoảng cách để xem cho “biết người biết ta”. Bởi, tôi nghĩ, dù các văn hóa tộc người và các khu vực địa - văn hóa có khác nhau đến đâu đi nữa thì cũng vẫn vận động theo một quy luật cơ bản thống nhất, quy luật của cái đẹp. Tư tưởng phê bình văn học được thể hiện ở các lý thuyết và phương pháp phê bình, cụ thể hơn ở các cách tiếp cận tác phẩm. Phê bình văn học, theo tôi, cho đến nay đã trải qua ba hướng tiếp cận tác phẩm 1 đến với tác phẩm từ tác giả, 2 từ chính tác phẩm và, cuối cùng, 3 từ độc giả. Quả thật, thực tiễn phê bình văn học thế giới đã trả qua những bước đường này theo trình tự nhận thức tác giả –> tác phẩm –> độc giả. Hơn nữa, sơ đồ này rất phù hợp với lý thuyết thông tin trong việc triển khai cái tam giác trên thành tuyến tính người phát –> thông điệp –> người nhận tác giả tác phẩm độc giả Con đường tiếp cận tác phẩm từ tác giả hiện nay chúng ta thấy nó hết sức tự nhiên, như cha nào con ấy, rau nào sâu ấy, nhưng thực ra để trở thành một đường đi không dễ dàng chút nào. Ở châu Âu, từ thời Hy Lạp cổ đại cổ điển đến trước Thời đại Mới, trước khi phương pháp tiểu sử học ra đời, là sự thống trị của triết học, mỹ học và tư tưởng văn học của Aristote 322 - 184 Ông này cho rằng nghệ thuật là sự mô phỏng, trước hết mô phỏng tự nhiên, sau đó mô phỏng các tác phẩm mẫu mực. Ví như, có thể chọn những vở bi kịch thể loại cao quý và tiêu biểu cho văn học cổ và trung đại hay nhất, tức có tác dụng thanh lọc catharsis cảm xúc của công chúng nhất, rút ra những quy tắc sáng tác, rồi căn cứ vào những quy tắc ấy mà làm ra những vở bi kịch hay khác. Như vậy, người nghệ sĩ không sáng tạo theo cảm hứng cá nhân, mà tuân thủ theo các quy tắc có sẵn. Có thể nói, anh ta không sáng tạo ra vật thể, dù là vật thể tinh thần, mà vật thể tự xuất hiện qua các thao tác của anh ta. Thế là Thi pháp học quy phạm của Aristote đã vô hình trung biến nghệ thuật thành thủ công, người nghệ sĩ thành anh thợ thủ công. Thời đại Mới bắt đầu với sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân. Mỹ học Lãng mạn đề cao vai trò của tác giả như là chủ thể sáng tạo. Và quan hệ tác giả - tác phẩm là quan hệ nhân quả. Phương pháp tiểu sử học ra đời với nhà thơ, nhà phê bình văn học người Pháp Sainte-Beuve[17]. Một sự kết hợp độc đáo nguyên tắc tính chủ quan và tính lịch sử của quá trình văn hóa kết gắn với học thuyết khai sáng về “bản chất tâm lý không thay đổi của con người”. Cá nhân con người cụ thể là kẻ sáng tạo ra văn chương. Tác phẩm văn chương là con đẻ của tác giả, nên theo quy luật “giỏ nhà ai quai nhà ấy” thì nó phải in đậm dấu ấn của người làm ra nó như khí chất, tính tình, thiên hướng, giáo dục... Bởi vậy, đến tác phẩm từ tác giả là đến với cái chưa biết từ cái đã biết theo con đường loại suy. Tuy nhiên, con người không phải là nhất sinh bất biến, mà còn là sản phẩm của những môi trường văn hóa lịch sử nhất định. Vì thế mà có thể mở rộng việc nghiên cứu tác giả sang cái hoàn cảnh đã sản sinh ra tác giả. Trường phái văn hóa - lịch sử của [18] đưa ra ba nguyên lý cần phải áp dụng vào nghiên cứu con người nhà văn là chủng tộc, địa điểm và thời điểm. Nếu trong cái hoàn cảnh sản sinh ra tác giả ấy, người ta đặc biệt chú ý đến những nhân tố kinh tế xã hội, coi kinh tế là nguyên nhân của mọi nguyên nhân và động lực của sự phát triển xã hội thì đó là phương pháp xã hội học, trong đó có một hình thức triệt để hơn cả là phương pháp xã hội học mác xít. Phương pháp Xã hội học từ khi ra đời đến nay không ngừng làm phong phú bản thân mình bằng việc thu nhận những thành tựu của các ngành khoa học khác như cấu trúc luận, ký hiệu học. Đặc biệt là xã hội học văn học độc đáo ở chỗ đặt vấn đề nghiên cứu xã hội trước tác phẩm, xã hội trong tác phẩm và xã hội sau tác phẩm tức lý thuyết tiếp nhận. Phương pháp tiểu sử học, trường phái văn hóa lịch sử và các phương pháp xã hội học đều nghiên cứu tác giả với tư cách là con người xã hội. Nhưng tác phẩm văn học không chỉ có phần có chủ ý, tức ý đồ tác giả, như là sản phẩm của con người hữu thức, mà còn có cả phần không chủ ý, phần chìm của tảng băng trôi, sản phẩm của con người vô thức. Bởi thế, khi nghiên cứu tác giả, nếu Sainte - Beuve xuất phát từ tuổi trưởng thành, thì các nhà phê bình phân tâm học xuất phát từ tuổi ấu thơ. Phương pháp phân tâm học nghiên cứu những xung năng vô thức như là những ngọn nguồn sáng tạo ở tác giả. Nếu phân tâm học của S. Freud chủ yếu nghiên cứu cái vô thức ở con người cá nhân nhà văn thì phân tâm học của Jung, với lý thuyết về siêu mẫu, chú trọng đến vô thức tập thể, và đặc biệt là J. Lacan[19] với định đề nổi tiếng “vô thức được cấu trúc như một ngôn ngữ” lại thiên về cái vô thức ở văn bản tác phẩm. Từ đây xuất hiện phân tâm học văn bản. Nhà phê bình phân tâm học có thể không cần biết đến tác giả mà vẫn phân tích được tác phẩm. Nhờ có phân tâm học văn bản mà người ta có thể nghiên cứu được truyện cổ tích vốn không có tác giả, hoặc thơ Hồ Xuân Hương bất chấp tác giả này chưa có một tiểu sử xác định. Bởi vậy, phương pháp phân tâm học là một trong những cái cầu nối trên con đường tiếp cận tác phẩm từ tác giả sang tiếp cận tác phẩm từ tác phẩm. Trước khi từ giã những cách tiếp cận thứ nhất, “từ tác giả”, tôi muốn nói rằng, mặc dù có rất nhiều ưu việt, nhưng các phương pháp phê bình ngoại quan này nhiều khi rơi vào một nghịch lý đáng buồn là lẽ ra qua tác giả để tìm hiểu tác phẩm, thì, ngược lại, do quá chú mục vào tác giả, nên đã coi tác phẩm chỉ như một thứ tài liệu để hiểu con người nhà văn, trình độ văn hóa lịch sử và cái trạng thái kinh tế - xã hội thời nhà văn sống. Một cầu nối khác là phương pháp thi pháp học. Như đã biết, thi pháp học có từ thời Aristote, rất chú trọng đến tác phẩm, nhưng đó là thi pháp học quy phạm, cổ điển. Một thứ thi pháp học dạy người ta “chế tác” ra những tác phẩm đúng và hay. Vào đầu thế kỉ XX, sự phát triển của triết học, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là ngữ học, đã có ảnh hưởng lớn đến phê bình văn học. Thi pháp học hiện đại hình thành, không chủ trương dạy nhà văn phải viết như thế nào, mà nghiên cứu tác phẩm bằng con đường mô tả khoa học và về sau quan niệm về mô tả ngả đều theo tinh thần hiện tượng học. Trên cơ sở này, chủ nghĩa hình thức Nga[20] ra đời như là sự chống lại một bên quan niệm nghệ thuật như là nhận thức của Potebnia trong lý luận và bên kia chủ nghĩa tượng trưng Nga trong sáng tác. Shklovski, chủ soái của trường phái này, và các đồng chí tài năng của ông coi trọng hình thức, vì hình thức chính là nghệ thuật, còn nghệ thuật thì như là thủ pháp. Chủ nghĩa hình thức Nga đã có nhiều đóng góp như việc xác định tính tự trị của tác phẩm văn học, coi đối tượng của phê bình văn học là tính văn học R. Jakobson, cái làm cho một tác phẩm trở thành tác phẩm văn học, đề ra khái niệm vật liệu đối lập với hình thức, miêu tả được các hệ thống cốt truyện Eikhenbaum, chủ đề Tomashevski, thủ pháp Shklovski và sự tiến triển của văn chương Tynianov... Như vậy, chủ nghĩa hình thức Nga không chỉ làm mới lại thi pháp học của Aristote, biến nó từ quy phạm, giáo điều thành miêu tả, khoa học, tức từ cổ điển thành hiện đại, mở ra một thời đại mới trong phê bình văn học với những cách tân hết sức cơ bản và độc đáo. Hầu hết những trường phái sau này ở châu Âu và Bắc Mỹ đều tìm thấy xuất phát điểm của mình ở chủ nghĩa hình thức Nga, như chủ nghĩa cấu trúc ở tư tưởng cấu trúc của Tynianov, phân tích truyện kể ở Tomachevski, Shklovski... Phải nói rằng, ngôn ngữ của tác phẩm văn học đã được chú trọng từ chủ nghĩa hình thức Nga phân biệt ngôn ngữ thơ ca và ngôn ngữ thường nhật, phân biệt phương diện tồn tại vật liệu và tồn tại thẩm mỹ của ngôn ngữ, nhưng ngôn ngữ chỉ thực sự trở thành “nhân vật chính” trong chủ nghĩa cấu trúc, ký hiệu học, phong cách học... là những khoa học lấy ngữ học cấu trúc của Ferdinand de Saussure[21]1857-1913 làm cơ sở. Trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, nhà ngữ học Thụy Sĩ này đã thực hiện một loạt những lưỡng phân. Trước hết, ông phân biệt lời nói parole với ngôn ngữ langue và cho rằng chỉ ngôn ngữ mới là đối tượng của ngữ học. Ngôn ngữ là mã code của lời nói, bởi thế ngôn ngữ có tính xã hội, là chung của mọi người, còn lời nói mang tính cá nhân, của riêng mỗi người. Và để nghiên cứu ngôn ngữ, phải nghiên cứu đồng đại, vì chỉ có trên cơ sở một nhát cắt đồng đại, tĩnh quan và khép kín, mới tìm ra được cấu trúc của ngôn ngữ. Vậy ngôn ngữ là một hệ thống bao gồm các yếu tố quy định lẫn nhau và chịu sự quy định chung của cả hệ thống. Giá trị của mỗi yếu tố, vì vậy, không phải ở bản thân nó, mà ở quan hệ của nó với các yếu tố khác trong hệ thống mang lại. Và giá trị của cả hệ thống bao giờ cũng lớn hơn tổng giá trị của từng yếu tố. Ở hệ thống ngôn ngữ, mỗi yếu tố là một ký hiệu, toàn bộ ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, một bộ phận tiêu biểu nhất và quan trọng nhất của ký hiệu học. Mỗi ký hiệu ngôn ngữ gồm có hai mặt mặt âm thanh và chữ viết gọi là cái biểu đạt signifiant, mặt khái niệm, ý nghĩa gọi là cái được biểu đạt signifié. Quan hệ giữa CBĐ và CĐBĐ là quan hệ võ đoán, có tính quy ước do cộng đồng ngôn ngữ quy định, nhưng lại gắn bó với nhau như hai mặt của một tờ giấy. Phương pháp nghiên cứu ngữ học nói trên của F. de Saussure đã trở thành phương pháp luận chung cho nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn, thậm chí cả khoa học tự nhiên. Lấy ngữ học làm “khoa học hoa tiêu”, Roman Jakobson đã vận dụng vào nghiên cứu văn học, đặc biệt là thi pháp thơ, Lévi - Strauss[22] trong dân tộc học, Jacques Lacan trong phân tâm học, Michel Foucault trong lịch sử tư tưởng và tri thức luận... Từ những nghiên cứu cụ thể của từng lĩnh vực, các nhà khoa học, đặc biệt là Lévi-Strauss, đã khái quát lên thành những vấn đề lý luận và xây dựng thành chủ nghĩa cấu trúc vừa là một triết học vừa là một phương pháp luận khoa học. Nhưng dù phát triển đến như thế nào đi nữa thì chủ nghĩa cấu trúc không bao giờ xa rời được cái định hướng ngữ học của nó. Vì thế, nó càng thúc đẩy mạnh hơn sự phân tích cấu trúc văn bản trong việc nghiên cứu văn học. Cũng phát huy tính ký hiệu của ngôn ngữ, ký hiệu học, khoa học về các ký hiệu của ngôn ngữ văn học, đặc biệt phát triển vào những thập niên giữa thế kỉ XX. Một công trình có tính chất khởi đầu cho cả cấu trúc luận và ký hiệu học là Hình thái học truyện cổ tích của Vladimir Propp[23] in năm 1928 ở Nga. Tác phẩm này, một mặt, gợi ý nhiều cho một nhà ký hiệu học khác người Pháp, Greimas, ở công trình Ngữ nghĩa học cấu trúc 1966, mặt khác, cổ vũ cho một nhà ký hiệu học lớn khác của nước Nga và của thế giới là Iuri Lotman[24], với những tác phẩm Cấu trúc văn bản nghệ thuật 1970, Mỹ học và ký hiệu học điện ảnh 1973... Ngoài ra, trường phái Paris còn gắn với những tên tuổi lớn khác là Roland Barthes với Những cơ sở của ký hiệu học, Hệ thống mốt 1967, Vương quốc của ký hiệu 1970, là Julia Kristéva với nhóm Tel Quel... Một nhân vật sáng giá khác của ký hiệu học cũng cần phải được nhắc đến là Umberto Eco với các công trình như Tác phẩm mở 1962, Cấu trúc vắng mặt 1968. Ký hiệu học, cấu trúc luận, thi pháp học tuy có những định hướng nghiên cứu khác nhau, cách tiếp cận khác nhau, nhưng cũng có rất nhiều điểm tương đồng vì cùng lấy ngữ học cấu trúc làm cơ sở, cùng lấy việc nghiên cứu tác phẩm, đặc biệt là văn bản, làm trọng tâm. Văn bản có tính tự trị bởi sự tồn tại độc lập của ký hiệu, của các cấu trúc ngôn ngữ, của hình thức tác phẩm. Bởi thế, tác phẩm bao giờ cũng có một trung tâm, có nghĩa ổn định và khách quan vì sự khách quan của văn bản. Như vậy, phê bình văn học chỉ cần biết tới tác phẩm, mà không cần quan tâm tới tác giả và người đọc. Lối tiếp cận tác phẩm từ tác phẩm này một khi phát triển đến cực điểm thì chính độ viên mãn của nó lại làm bộc lộ những phiến diện mới. Và sự khắc phục những khiếm khuyết này một mặt là những điều chỉnh tự thân, mặt khác đáp ứng những nhu cầu mới của thời đại. Thời đại hậu công nghiệp, thời đại thông tin, thời hậu hiện đại. Điều này trước hết đã thúc đẩy chủ nghĩa cấu trúc phát triển thành hậu cấu trúc luận và giải cơ cấu với vẫn những nhân vật quen thuộc của chủ nghĩa cấu trúc như Roland Barthes, Michel Foucault, Jacques Derrida. Đồng thời sự hình thành các khoa học mới như minh giải học chú giải học hiện đại và mỹ học tiếp nhận với George Gadamer, Hans Robert Jauss và Wolfrang Iser đã làm xuất hiện nhân vật người đọc, như một đồng sáng tạo hoặc liên chủ thể. Và, từ đây xuất hiện một lối đi mới tiếp cận tác phẩm từ người đọc. Còn nữa Phần 1, 2, 3______________________Chú thích [16] Hành trình tư tưởng văn học phương Tây in trong cuốn Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc, 1999. [17] Sainte-Beuve 1804-1869, nhà thơ lãng mạn, nhà phê bình văn học Pháp. Tác phẩm chính Những chân dung văn học 1836-1839; Trò chuyện ngày thứ hai... [18] Taine H. 1828-1893, nhà triết học, nhà lịch sử và phê bình văn học Pháp. Thủ lĩnh của trường phái văn hóa - lịch sử. Tác phẩm chính Những nguồn gốc của nước Pháp đương đại 1875-1894, Luận về truyện ngụ ngôn của La Fontaine 1853, Lịch sử văn học Anh 1864, Triết học nghệ thuật 1865, Về trí tuệ 1870... [19] Lacan J. 1901-198.., nhà phân tâm học Pháp, mở ra một giai đoạn mới trong phân tâm học với chủ nghĩa cấu trúc. Ông khám phá ra “giai đoạn tấm gương” trong sự phát triển của trẻ em và Luật người cha và Luật biểu tượng. Định đề nổi tiếng của ông “vô thức được cấu trúc như một ngôn ngữ” đã mở ra ngành phân tâm học văn bản. [20] Về Chủ nghĩa hình thức Nga và các thành viên của nó xin xem Nghệ thuật như là thủ pháp Lý thuyết chủ nghĩa hình thức Nga, Đỗ Lai Thúy biên soạn và giới thiệu, Nxb Hội Nhà văn, 2001. [21] Ferdinand de Saussure 1857-1913, nhà ngữ học Thụy Sỉ, người sáng lập ra ngữ học cấu trúc và tạo ra cuộc cách mạng lần thứ nhất trong ngữ học. Saussure đã có ảnh hưởng đến toàn bộ khoa học xã hội và nhân văn thế kỷ XX. Tác phẩm duy nhất Giáo trình ngôn ngữ học đại cương do hai người học trò ghi lại từ bài giảng và xuất bản. [22] Lévi-Strauss 1908- , nhà nhân học Pháp, người sáng lập ra chủ nghĩa cấu trúc. Nhiều năm sống và nghiên cứu ở Brésil. Tác phẩm chính Nhiệt đới buồn 1955, Nhân học cấu trúc 1953, Tư duy man dã 1962, Huyền thoại học 1964-1971... Ông đã mang đến cho chủ nghĩa cấu trúc một kích thước nhân văn. [23] Propp V. 1895-1970, nhà ngữ văn học Nga, một trong những người đi đầu nghiên cứu cấu trúc văn bản nghiên cứu từ góc độ ký hiệu học. Đã dịch sang tiếng Việt Hình thái học truyện cổ tích 1928 và Những gốc rễ lịch sử của truyện cổ tích thần kỳ, Nxb Văn hóa Dân tộc và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật xuất bản, 2003. [24] Lotman Iu. 1922-1993, nhà ký hiệu học văn học và văn hóa Nga, giáo sư Đại học Tổng hợp Tartu thuộc Estonia. Nghiên cứu văn học trong quan hệ với tổng thể văn hóa. Tác phẩm chính Những bài giảng về thi pháp học cấu trúc 1964, Cấu trúc văn bản nghệ thuật 1973, Ký hiệu học điện ảnh và những vấn đề mỹ học điện ảnh 1973...

các phương pháp phê bình văn học